Lễ Ðức
Mẹ Lên Trời
(15-8-2002)
ÐỌC LỜI CHÚA
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab: (5) Bà đã sinh được một người con, một người con trai,
người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên
Thiên Chúa, lên tận ngai của Người.
1Cr 15,20-27a: (20) Ðức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. (22) Mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Ðức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.
TIN
MỪNG: Lc 1,39-56
Ðức Ma-ri-a viếng thăm bà
Ê-li-sa-bét
(39) Hồi ấy, bà
Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. (40) Bà vào nhà
ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được đầy tràn Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng:
Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế
này? (44) Vì này đây,
tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có
phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.
Bài ca Ngợi Khen (Magnificat)
(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi. (48) Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (50) Ðời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.
(56) Bà Ma-ri-a ở
lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà
Câu hỏi gợi ý:
1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế
không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay
không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?
2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời
phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức
tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?
chia sẻ
1. Ðời của
Ðức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt
Cuộc đời của Ðức Ma-ri-a có nhiều
nét đặc biệt và nghịch lý. Ðặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên
trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không
phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn
đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhẩy mừng khi Mẹ đến thăm,
v.v. Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao
sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ
người nào trên trần gian này.
Nghịch lý ấy là nghịch lý đối
với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì
phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục
tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen
phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Nhưng
nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa
suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài Ngợi Khen, Ðức Ma-ri-a đã nêu lên cách
hành động của Ngài: Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao
mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi
về tay trắng.
2. Hai cách
suy nghĩ
Thực ra đó là hai cách nghĩ và
hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong
hai lãnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời
gian khác nhau. Cách của người đời - không dựa vào đức tin - thì đúng trong
phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người,
và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn
cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong
đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có
thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng,
cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc
nhất thế giới ủng hộ, cổ võ.
Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn - chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay - thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.
Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ
để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ
ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể
làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm
lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu
có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái
lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng
hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quí giá và một món rẻ tiền.
Thật là phi lý khi bảo người chọn món quí giá và để lại món rẻ tiền cho người
kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người
chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?
3. Ai hy
sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi
tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự
từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn
thốt lên:
- Thưa Cha, đời
sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm
Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài.
- Con đã nói
phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục
một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có
thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ
và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Ðạo để chạy theo những của
cải vật chất giả tạm vô thường.
Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người
không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn
những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không
hay biết. Ðó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh.
4. Vấn đề
là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v. Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
5. Chọn lựa
của Mẹ Ma-ri-a
Sự khôn ngoan như thế thật đáng
khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù
là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ cao cả đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi
những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ
gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và
nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Ðiều
đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến
thắng. Ðộng lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối
với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì
tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc
- cho dù là vĩnh cửu - của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên
Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao
nhất, trọn vẹn nhất. Ðúng như lời Ðức Giê-su nói: Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình
vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc
9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Ðức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.
Joan Nguyễn Chính Kết