DĨ ĐỘC TRỊ ĐỘC
Chúa Nhật
4 B Mùa Chay
Lời Chúa
2 Sb 36:14-16.19-23
Ga 3:14-21
Ep 2:4-10
Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp.
Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người
xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. “Ôâng Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,” (Ga
TÌNH YÊU BA CHIỀU
Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một
tương quan ba chiều với Chúa Cha, con người và vũ trụ. Người đã
phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột
độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn
dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó.
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế
gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.” (Ga 3:17) Sự công chính đã mang bộ mặt
tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi
sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất
đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.
“Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống
muôn đời” (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó
nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc
vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo
trên thập giá. Đó là con đường dẫn ta thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật.
Chính Đức Giêsu quả quyết : “Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời.” (Ga 3:16)
Thập giá trở thành trung tâm
trong chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ.
Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự
thật về bản tính mình. “Khi các ông giương Con Người lên,
bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga
Như vậy cây thập giá đã chứng
tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với
nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng
Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ
đại, vượt quá tầm hiểu biết. Quả thực, “Thiên Chúa giàu lòng thương xót
và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa
ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành “con cái ánh sáng” (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là “ánh sáng đã đến thế gian.” (Ga
3:19) Không phải ai cũng đón nhận được hồng
ân cao cả đó. Thực tế, “người ta đã chuộng bóng tối hơn
ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.” (Ga 3:19) Chính việc làm đã tạo thành
một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương ! Định mệnh thật khốc liệt !
Nhưng trong quá khứ, ngay lúc
bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện trọn vẹn giấc mơ. Chỉ một mình
Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử ! Thực vậy, “để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn
toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư” (Sb 36:22), để
vua “ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ” (Fahey
1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt
vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp
nhất.
TRỜI BỪNG SÁNG
Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai
tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh
thần những ai run sợ trước thần chết : “Ai tin vào Con
của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga
Khi tin, con người sẽ thấy
mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã
giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng
ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian
(Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ
tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi
trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là “ánh sáng cho trần gian” (Mt
Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm
than đó, phải “tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu
chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại
và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời
Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người” (Life
Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như
thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống.
Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô
biên của Thiên Chúa. Đức tin giúp ta “bắt đầu lượng định tất cả sự việc
xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu” (Life Application
Study Bible 1991:1878).
Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa
là “làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữ trong chúng
ta và trên thế giới” (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B
1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy
con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống
hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin
ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm
Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa
Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói : “Chỉ có chủ thuyết không
có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối
người như vậy” (VietCatholic
Nhưng “ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải
mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu” (Gioan Phaolô II, VietCatholic
Lm. Giuse Dỗ Vân Lực