THÂN PHẬN NGÔN SỨ
Chúa Nhật 14B Thường Niên
Ed 2:2-5
Mc 6:1-6
2 Cr 12:7-10
Làm sao
có thể đem lại niềm hi vọng cho con người giữa một thế giới đầy những bạo loạn
và khổ thống hôm nay? Tất cả những đều bắt
nguồn từ vô minh trước chân lý. Bởi đấy,
cần lắng nghe ngôn sứ là những người loan báo sự giải thoát cho nhân loại.
CÓ MỘT NGÔN SỨ GIỮA CHÚNG TA
Ngôn sứ
là bộ mặt quen thuộc trong Cựu Ước và truyền thống Do thái. Họ là người lặp lại những lời Giavê. Bởi đấy họ trở thành một “chuyên viên” nói về
Thiên Chúa, kinh nghiệm về “vinh quang” (Ed 1:26-28), sức mạnh áp đảo (Gr
15:16), sự thánh thiện tuyệt vời của Thiên Chúa (Is 6:1-8). Bắt nguồn từ ý thức sâu xa về tôn giáo và chính trị, ngôn sứ
cho thấy Giavê đang hướng dẫn về một tương lai, “ngày” cao điểm Thiên Chúa sẽ
thực hiện giao ước và xuất hiện vinh quang, từ khi có một cuộc thay đổi sâu xa
tự bên trong (Gr 31:31-37; Ed 34:11-30; 36:23-36).
Chính
vì thế, Đức Giêsu đã giải thích Kinh thánh và nói những lời tiên tri cho người
thời đại để hoàn thành lời ngôn sứ: “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất
hiện một ngôn sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng
người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy.”
(Đnl 18:18) “Dân chúng cho Người là một ngôn sư,ù” (Mt
21:46) nghĩa là nhận ra Người là ngôn theo truyền thống Do thái. Nhưng những người khác lại thấy nơi Người ứng
nghiệm lời sách Đnl 18:15-18 khi nói : “Oâng này thật là vị ngôn sứ.” (Ga 7:40) Bởi thế, nguồn gốc của Người thật cao cả :
“Chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel.” (Ed 2:3)
Hơn một
ngôn sứ, Đức Giêsu còn làm những phép lạ như những dấu chỉ diễn tả tình yêu và
quyền năng của Người được Chúa Cha sai đến.
Khác hẳn mọi người, Đức Giêsu có ảnh hưởng trực tiếp trên dân chúng. Trước khi họ mở miệng, Người đã bắt ngay được
những tư tưởng và bận tâm của họ (Mc 2:1; Mt 12:25; Lc 9:47). Họ không thể dấu giếm Người điều gì. Người có thể thấu suốt tâm hồn. Thực tế, Người còn ý thức mình “còn hơn” một
ngôn sứ, “hơn Giona” (Mt 12:41), “cao cả hơn vua Salomôn” (Mt 12:42), “cao cả hơn
Đền Thờ.” (Mt 12:16) Tuy cao cả như thế,
Người vẫn không muốn che dấu thân phận bi thương khi phải đối diện với cái chết
tàn bạo. Nhưng cái chết đó đã Người cắt nghĩa là việc đền thay tội ác nhân loại. Mầu nhiệm cứu độ chỉ được mạc khải hoàn toàn
khi Người phục sinh.
Nếu không
phục sinh, không thể nào hiểu được tại sao một ngôn sứ lại gặp bế tắc trên bước
đường công bố chân lý giải thoát cho nhân loại.
Những lạnh lùng của người thân dẫn đến một viễn tượng đau khổ và cái chết. Đức Giêsu đã phải cay đắng chừng nào khi thốt
lên : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám
bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” (Mc 6:4) Không còn kinh nghiệm nào quí báu hơn ! Không còn thực tế nào phũ phàng hơn !
Chính
thực tế phũ phàng đó đã đẩy Chúa vào cõi chết.
“Họ vấp ngã vì Người.” (Mc 6:3)
Nhưng khi phục sinh thân xác Đức Giêsu, Thánh Linh đã biến Người thành “đá
tảng góc tường” (Tv 118:22) xây nên tòa nhà Giáo hội. Như vậy, cái chết của Người đã biến thành một
lời tiên tri và một bảo đảm mạnh mẽ nhất cho mọi người thấy giao ước tình yêu
Thiên Chúa nên trọn vẹn.
Người
ta cứ tưởng lời ngôn sứ bị đóng khung trong giới hạn thân xác hay hoàn cảnh địa
dư và văn hóa. Thực tế, lời ngôn sứ hoàn
toàn lệ thuộc vào niềm tin. Bởi thế, Đức
Giêsu “lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6:6)
Chính lòng cứng tin này đã làm cho Người bó tay “không thể làm được phép
lạ nào tại đó.” (Mc 6:5) Nhưng đó lại là
lúc Người phá tung biên giới “quê quán của Người” (Mc 6:1) để “đi các làng
chung quanh mà giảng dạy” (Mc 6:6) chân lý giải thoát muôn dân. Một số người xóm làng cứng tin. Nhưng sẽ có hàng vạn người mở lòng đón nhận
Tin Mừng Cứu độ. Bởi đấy, chắc chắn kèm
theo lời giảng là những phép lạ Người sẽ thi thố khắp nơi.
Cái nhìn bà con đóng khung trong những giới hạn
rất trần tục, không đi xa huyết thống và những nhu cầu hằng ngày: “Oâng ta không
phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và
Simôn sao ? Chị em của ông không phải là
bà con lối xóm với chúng ta sao ?” (Mc 6:3)
Họ nêu thắc mắc rất chính đáng về quyền uy của Người: “Bởi đâu ông ta được
như thế ? Oâng ta được khôn ngoan như vậy,
nghĩa là làm sao ? Oâng ta làm được những
phép lạ như thế, nghĩa là gì ?” (Mc 6:2)
Nhưng làm sao tìm được câu trả lời nếu đóng khung Người trong những giới
hạn như thế ?
Câu trả
lời chỉ có thể tìm thấy Đức Giêsu Kitô “một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng
như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.” (Lc 24:19) Người đến hoàn thành và thực hiện lời ngôn sứ
xa xưa. Nhờ Người, cộng đoàn không ngừng
sống trong tương quan với trào lưu ngôn sứ.
Trên hết, cơ cấu cộng đoàn tiên khởi nhìn nhận nơi các ngôn sứ có một
nguyên tắc căn bản làm nền tảng xây dựng
sức sống Giáo hội (x. Ep. 4:11; 1 Cr 12:28).
Suốt 20 thế kỷ, Giáo hội đã coi ngôn sứ là một trong những đoàn sủng để
Giáo hội thi hành nhiệm vụ làm trung gian mạc khải.
NGÔN SỨ TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
Nếu ngôn
sứ là một đoàn sủng, mọi người có thể xây dựng cộng đoàn (1 Cr 14:3, 29-32) dựa
trên Lời Chúa. Chính Thánh Linh hướng dẫn
các ngôn sứ trong công tác xây dựng cộng đoàn và cho các ngôn sứ thần hứng nói
tiên tri (Cv 2:18; 11:28; 19:6; 21:11; 1 Cr 12:28; 1 Pr 1:11; 2 Pr 1:21). Sứ ngôn là “lời chứng của Đức Giêsu,” (Kh
19:10) mục đích làm cho Lời Chúa trở thành hiện thực, sống động và gần gũi với
cộng đoàn. Vì thế, thánh Phaolô kêu gọi
ngôn sứ “xây dựng, khích lệ và an ủi” để “xây dựng Hội Thánh.” (1 Cr 14:3.4) Những kiểu đe loi, lên án và oán phạt đều biến
khỏi những lời ngôn sứ trong Tân Ước.
Ngôn sứ
hướng dẫn cộng đoàn hiện tại trong ánh sáng phục sinh và niềm hi vọng Người
quang lâm. Muốn thế, ngôn sứ phải cẩn thận
tìm hiểu lịch sử hiện tại trong nguồn mạch truyền thống và trong ý thức cánh
chung. Nói khác, ngôn sứ phải chuẩn bị đọc
được những dấu chỉ thời đại và tạo được những dấu chỉ mới làm cho sứ điệp cứu độ
thành sống động cho nhu cầu hiện đại.
Sứ ngôn
luôn luôn và tuyệt đối phải là một lời đầy khích lệ, chân thực và hi vọng. Thánh
giá Chúa Giêsu là dấu chỉ mang tính ngôn sứ cao cả nhất. Dung nhan của Đấng chịu đóng đinh chiếu tỏa
vinh quang Chúa Cha chính là sứ điệp cuối cùng nói lên ý muốn cứu độ của Thiên
Chúa. Khi sang thăm Croatia, ĐGH Gioan
Phaolô II đã “mời gọi người dân hãy trở nên “nhân chứng trung thành và tông đồ
quảng đại” (Zenit 09.06.2003) cho tình yêu Thiên Chúa. Người còn nói : “Trên khuôn mặt in hằn dấu vết
chiến tranh, tôi biết anh chị em rất đau khổ.
Nhưng tôi cũng biết anh chị em cương nghị, can đảm và tràn đầy hi vọng. Chắc chắn tương lai sẽ khá hơn.”
Là một
ngôn sứ, “giáo dân hăng say dấn thân làm việc tông đồ dưới mọi hình thức … Hãy học cùng Đức Maria để trở nên những chứng
nhân trung thành và những tông đồ quảng đại … để góp phần riêng vào công cuộc tân
phúc âm hóa.” Để hoàn thành sứ mệnh cao
cả đó, họ phải nguyện xin Mẹ Maria “phù giúp chúng ta làm chứng cho tình yêu đâm
hoa kết trái và cuộc đời đầy ý nghĩa đích thực, xin dạy chúng ta cùng Mẹ xây dựng
Vương quốc Thánh Tử, Vương quốc công chính, tình yêu và hòa bình.” (Zenit
09.06.2003)
Lm. Giuse Đỗ vân Lực, OP