CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, B

(Lu-ca 1: 26-38)

 

 

          Hai khuôn mặt nổi bật trong mùa Vọng là Mẹ Ma-ri-a và thánh Gio-an Tẩy giả.  Bài Tin Mừng của hai Chúa Nhật trước đã giúp ta hiểu con người và sứ mệnh của Gio-an.  Hôm nay, câu truyện Truyền Tin không những cho chúng ta một gương mẫu chuẩn bị đón Chúa Giê-su Cứu Thế đến trong nhân loại và trong tâm hồn ta, nhưng hơn thế nữa, Mẹ còn là gương mẫu đem Chúa đến cho người khác.  Bài Tin Mừng Truyền Tin kể lại một sự kiện vô cùng quan trọng và khởi đầu cho việc thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời bài Tin Mừng cũng khéo léo nêu lên một nhân đức cao trọng của Mẹ Ma-ri-a là đức khiêm nhường.  Cử chỉ bối rối khi nghe lời chào của sứ thần và câu trả lời tuân phục của Mẹ khi chấp nhận sứ mệnh Thiên Chúa trao là những điểm ta sẽ dùng để suy gẫm về đức khiêm nhượng của Người.

 

a)  “Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì”

 

          Lời chào của sứ thần có lẽ khó hiểu đối với nhiều người, nhất là ta không quen với những kiểu nói chỉ gặp thấy trong Kinh Thánh Cựu Ước:  “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.  Là người hằng ngày suy niệm và thấm nhuần Lời Chúa, chắc chắn Đức Mẹ hiểu rõ ý nghĩa những lời này của sứ thần.  Chính vì hiểu rõ ý nghĩa nên Đức Mẹ mới bối bối và không biết sứ mệnh Chúa muốn trao cho mình là sứ mệnh gì.  Mẹ không bối rối sao được khi sứ thần cho biết Mẹ là “Đấng đầy ân sủng”, tức là người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt.  Đây quả thực là danh hiệu của Đức Mẹ, người con yêu quý nhất của Thiên Chúa trong toàn thể gia đình nhân loại.  Cảm nghiệm bối rối của Mẹ đã nảy sinh từ lòng khiêm nhượng sâu xa.  Mẹ thầm hỏi:  Làm sao tôi có thể là một thụ tạo được Thiên Chúa yêu thương nhất như vậy?  Tôi chỉ là một thiếu nữ như tất cả các thiếu nữ khác thôi, làm sao xứng đáng với một danh hiệu như thế? 

          Những lời tiếp theo của sứ thần ám chỉ về một sứ mệnh.  “Đức Chúa ở cùng” là kiểu nói trong những trình thuật Cựu Ước khi Thiên Chúa trao sứ mệnh cho một người.  Thí dụ, Thiên Chúa phán với ông Mô-sê:  “Ta sẽ ở với ngươi” khi Người trao cho ông sứ mệnh đưa dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập (Xh 3:12).  Hoặc Người bảo ông Giê-rê-mi-a:  “Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi” khi Người trao cho ông sứ vụ làm ngôn sứ (Gr 1:8,19).  Do đó, khi nghe sứ thần nói “Đức Chúa ở cùng bà”, Mẹ hiểu ngay đây là một sứ mệnh.  Nhưng sứ mệnh ấy là gì?  Đó chính là câu hỏi để Mẹ khởi đầu hành trình đi tìm và thực thi thánh ý Thiên Chúa, như ta thấy thánh sử Lu-ca đã ghi nhận:  “Nhưng ông bà (cha mẹ Chúa Giê-su) không hiểu lời Người vừa nói...  Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2:50,51b).  Đường lối của Thiên Chúa khi Người trao ban một sứ mệnh luôn đòi hỏi ta phải liên tục đáp lại lời gọi của Người.  Ông Áp-ra-ham, ông Mô-sê và các vị ngôn sứ, ai ai cũng phải cả một đời đáp lại lời gọi của Thiên Chúa để thi hành sứ mệnh.  Người muốn ta phải quảng đại và hết lòng tin tưởng Người.  Vì thế, sứ mệnh Người trao thường là chưa rõ ràng từ ban đầu.  Nhưng càng tin tưởng, ta càng khám phá ra sứ mệnh ấy rõ hơn, càng biết tỏ Chúa muốn ta làm gì.  Vì sứ mệnh là công việc của Chúa nên bao giờ Người cũng hiện diện, tức là sẽ “ở cùng” ta.  Nếu Chúa không “ở cùng” ta, ta sẽ làm theo ý riêng mình và sẽ bỏ cuộc khi đụng phải khó khăn.

          Vậy cảm nghiệm “bối rối” của Đức Mẹ là dấu chỉ cho ta nhận biết lòng khiêm nhượng sâu thẳm của Người và “tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” đánh dấu khởi đầu hành trình Đức Mẹ thực thi thánh ý Chúa và sứ mệnh Chúa trao ban.

 

b)  “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”

 

          Nếu lời chào của sứ thần đích thực nói lên con người và sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a, thì câu trả lời của Đức Mẹ là một khẳng định chân thành và khiêm tốn nhìn nhận thân phận mình và đáp lại lời gọi của Thiên Chúa.  Ta nhận ra sự song đối tài tình giữa lời chào của sứ thần và lời thưa của Đức Mẹ.  Nhưng tuyệt diệu hơn cả chính là tâm tình mến yêu và thái độ tôn kính của Mẹ. 

          Khiêm nhượng đích thực không bao giờ chối bỏ sự thật.  Lời khẳng định “vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” được phát biểu từ một tấm lòng khiêm nhượng giờ đây đượm nét tin yêu và tôn kính của một tạo vật đối với Đấng Tạo Dựng, giống như đất sét trong tay thợ gốm.  Đức Mẹ đã nhìn nhận thân phận đích thực của mình trước mắt Chúa.  Cho nên Mẹ mới sẵn sàng và quảng đại lãnh nhận bất cứ sứ mệnh nào Thiên Chúa trao ban.

          Có lẽ ở đây ta học được bài học quý giá nhất từ nơi Đức Mẹ, đó là biết lãnh nhận sứ mệnh Chúa trao.  Để biết sẵn sàng lãnh nhận một sứ mệnh, ta đừng tự ti cũng đừng tự tôn.  Khiêm nhượng đích thực nghĩa là ta biết mình là ai và là gì trước mặt Chúa.  Nếu ta tự ti là ta không tin “Chúa ở cùng ta”.  Còn nếu ta tự tôn là ta không “ở cùng Chúa”.  Mẹ Ma-ri-a biết mình “là nữ tỳ của Chúa”, tức là vinh dự được làm tôi tớ Chúa.  Mẹ thâm tín Thiên Chúa “ở cùng” Mẹ nên Mẹ không sợ hãi và xin Chúa cứ trao ban sứ mệnh.

 

c)  Khiêm nhượng và tin yêu trong hành động

 

          Câu truyện Truyền Tin hé mở cho ta biết về con người và sứ mệnh của Mẹ Ma-ri-a.  Theo dõi cuộc đời của Chúa Giê-su qua những trang sách Tin Mừng, ta cũng không biết nhiều lắm về cuộc đời của Đức Mẹ.  Ta thắc mắc tại sao một “Đấng đầy ân sủng” hoặc “nữ tỳ của Chúa” mà lại ít được nhắc tới như vậy.  Biết đâu chính Đức Mẹ đã trối lại cho con cái Người là các thánh sử không được viết gì thêm về cá nhân Mẹ!  Hoặc có thể vì muốn tôn kính lòng khiêm nhượng của Đức Mẹ nên các ngài không muốn làm trái ý Người!  Cũng như Gio-an Tẩy giả, Đức Mẹ theo cùng một đường lối:  “Chúa Giê-su phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.

          Lòng khiêm nhượng giúp ta luôn hướng về Chúa là cùng đích để ta biết mình là ai.  Ta không thể đích thực là ta nếu ta loại Chúa ra khỏi đời mình.  Bài ca “Ngợi khen” (Magnificat) là một khuôn mẫu Đức Mẹ để lại cho ta để ta học khiêm nhường.  Bài học này Mẹ đã dạy cho Con của Mẹ là Chúa Giê-su, để rồi đến lượt Chúa Giê-su mời gọi ta:  “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29).

 

d)  Suy nghĩ và cầu nguyện

 

          Sứ mệnh của tôi là gì?  Có khi nào tôi đặt câu hỏi đó không?  Tại sao không?  Sứ mệnh đó có cần thiết phải là những gì lớn lao không?  Hay chỉ nằm trong những bổn phận thường ngày của tôi?

          Mẹ Ma-ri-a dạy tôi bài học nào về đức khiêm nhường?  Biết tôi là ai?  Biết Chúa là Đấng nào?  Biết tin kính Chúa hơn?  Can đảm và quảng đại hơn?

          Tôi đã sẵn sàng đón Chúa đến với tôi chưa?  Cũng như Mẹ Ma-ri-a, tôi có sẵn sàng đem Chúa đến cho người khác không?

 

Cầu nguyện

 

Bài ca “Ngợi Khen” (Magnificat”

 

Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,

Thần trí tôi hớn hở vui mừng

Vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.

Phận nữ tỳ hèn mọn,

Người đoái thương nhìn tới;

Từ nay hết mọi đời

Sẽ khen tôi diễm phúc.

Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi

Biết bao điều cao cả.

Danh Người thật chí thánh chí tôn!

Đời nọ tới đời kia,

Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.

Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh

Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.

Chúa hạ bệ những ai quyền thế,

Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.

Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,

Người giầu có, lại đuổi về tay trắng.

Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người

Như đã hứa cùng cha ông chúng ta.

Vì Người nhớ lại lòng thương xót

Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham

Và cho con cháu đến muôn đời.

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con,

Cùng vinh danh Thánh Thần Thiên Chúa,

Tự muôn đời và chính hiện nay

Luôn mãi đến thiên thu vạn đại.  A-men.

 

Lm Đaminh Trần Đình Nhi

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B