Chúa Nhật
Lễ Giáng Sinh
(25-12-2005)
Đối tượng
ưu tiên trong sứ mạng của Đức Giêsu là những người nghèo hèn, đau khổ, tội lỗi
ĐỌC
LỜI CHÚA
· Is 9, 1-3. 5-6: (3) Cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,
ngọn roi hà hiếp họ, Ngài đều bẻ gãy. (4) Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo
choàng đẫm máu sẽ bị Ngài đem thiêu, làm mồi cho lửa.
· Tt 2, 11-14: (14) Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi
điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của
Người, một dân hăng say làm việc thiện.
· TIN MỪNG: Lc 2, 1-14
Đức Giêsu ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm
(1) Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm
tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu
tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyri. (3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê
lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc
vua Đavít. (5) Ông lên đó khai tên cùng
với người đã thành hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày
mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu
lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được
chỗ trong nhà trọ.
(8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài
đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Bỗng sứ thần Chúa đứng
bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi
hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: «Anh em đừng sợ. Này
tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã
sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra
Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ». (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp
với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) «Vinh danh Thiên Chúa trên
trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương».
CHIA
SẺ
Câu
hỏi gợi ý:
1. Tại sao Thiên Chúa lại để hoàn cảnh lịch sử
gây khó khăn đau khổ cho Giuse và Maria, là những người đang cộng tác vào công
việc quan trọng của Ngài? Ngài có thật sự thương các vị ấy không? Sao Ngài lại
làm như vậy?
2. Tại sao Con Thiên Chúa vô cùng giàu sang lại
sinh ra trong cảnh cơ cực, nghèo nàn và nhục nhã đến như vậy? Muốn người mình
yêu thương được hạnh phúc nhưng ta không chấp nhận đau khổ cho họ thì có được
không?
3. Tại sao thiên sứ lại báo tin cho các mục đồng
mà chẳng hề báo tin cho các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái? Thiên Chúa hành động
ngược đời quá chăng?
4. Đối tượng cần được quan tâm phục vụ nhất của
những người theo Chúa, những người loan báo Tin Mừng là hạng người nào? Thực tế
thế nào?
Suy
tư gợi ý:
1. Sự việc
xảy ra trong lịch sử không vượt ra ngoài sự an bài của Thiên Chúa
Việc Đức Giêsu sinh ra
ứng nghiệm những lời tiên báo trước đó về Đấng Cứu Thế: Ngài là con người chứ
không phải thiên thần (x. St 3,15; Dt 2,16), là người Do Thái, con cháu
Abraham, chứ không phải dân tộc khác (St 12,1-3; Ds 24,17), thuộc dòng tộc
Giuđa (St 49,10), là con cháu Đavít (2Sm 7,1-17), sinh tại Bêlem (Mk 5,2) bởi
một người nữ đồng trinh (Is 7,14). Sự việc hoàng đế Augúttô ra lệnh kiểm tra
dân số khiến Giuse và Maria phải rời Nadarét ở miền Bắc để vào Bêlem, quê hương
của Giuse ở miền Nam, để khai tên tuổi xem ra là ý muốn của vị hoàng đế này.
Điều này khiến gia đình vừa thành lập của Giuse và Maria phải điêu đứng khổ sở,
và Đức Giêsu cũng phải chịu cực theo từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Nhưng sự
việc này không nằm ngoài sự xếp đặt của Thiên Chúa. Ngài là chủ tể của lịch sử,
là Đấng điều khiển lịch sử. Nhờ đó, lời tiên tri nói Ngài sẽ sinh ra tại Bêlem
mới ứng nghiệm. Ta nên nhận ra thánh ý và cách thế hành động của Ngài qua những
biến cố lịch sử.
Qua sự việc trên, ta nhận
ra rằng có những sự việc đời ta và trong lịch sử có vẻ hết sức phi lý dưới con
mắt loài người, nhưng chúng không bao giờ vượt khỏi quyền năng và sự an bài
khôn ngoan kỳ diệu của Thiên Chúa. Cũng qua sự việc này, ta thấy cách Thiên
Chúa huấn luyện những người mà Ngài đặc biệt yêu thương như thế nào. Gia đình
Ngài yêu thương nhất mà còn phải trải qua biết bao thử thách, đau khổ và nhục
nhã như thế để được thánh hóa, để góp phần vào công việc cứu chuộc của Thiên
Chúa, lẽ nào chúng ta muốn nên hoàn thiện, muốn góp phần vào việc của Ngài lại
không phải trải qua đau khổ?
2. Tại sao Đức
Giêsu sinh ra nghèo hèn, nhục nhã như thế?
Điều đáng chúng ta suy
nghĩ là Ngôi Hai Thiên Chúa giàu sang vinh hiển vô cùng lại hạ sinh làm người
trong một hoàn cảnh nghèo khổ, cơ cực nhất trần gian. Ngài đã giáng sinh trong
một chuồng súc vật hôi hám, lấy máng ăn dơ bẩn của chúng làm nôi để nằm. Tự đặt
mình trong hoàn cảnh của Ngài, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy nhục nhã lắm!
Ngài chấp nhận như thế chỉ vì yêu thương con người, vì muốn nâng con người lên
và muốn họ được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: «Người vốn giàu sang phú quý,
nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho
anh em trở nên giàu có» (2Cr 8,9). Thật vậy, muốn tha nhân hạnh phúc mà
mình lại không muốn hy sinh, không chấp nhận ít nhiều đau khổ vì họ, thì đó là
một ước muốn không tưởng! Muốn nâng người khác lên mà lại cứ muốn trèo lên đầu
lên cổ họ là một ước muốn phi lý! Người thật sự theo Chúa không thể hành động
ngược lại với phương cách mà Ngài đã dùng. Nếu không theo cách của Ngài, ta chỉ
là một kẻ theo Chúa giả hiệu mà thôi.
3. Tại sao các
mục đồng lại được loan báo đầu tiên?
Tại sao tin mừng về việc
Đức Giêsu sinh ra lại được loan báo trước tiên cho các mục đồng chứ không phải
là các thượng tế, giới chức sắc và kinh sư trong tôn giáo? Đúng ra giới lãnh
đạo Do Thái giáo phải được loan báo tin này trước nhất mới phải chứ? Thiên Chúa
không hành động như thế. Các mục đồng tượng trưng cho giai cấp thấp hèn nhất,
bị bỏ rơi nhất trong xã hội và tôn giáo. Điều này cho thấy trước rằng sứ mạng
của Đức Giêsu là đến vì những người nghèo khổ, bị áp bức, những kẻ thấp cổ bé
miệng nhất trong xã hội… Tin Mừng Ngài đem đến là thứ tin mừng giải phóng, chỉ
những ai đang bị áp bức, bị giam hãm trong đau khổ, tội lỗi, mới cần được giải
phóng. Vì thế, nó phải được loan báo đặc biệt ưu tiên và trước tiên cho những
hạng người này. Cũng như Đức Giêsu, các ngôn sứ đích thực đều ưu tiên phục vụ,
tranh đấu, lên tiếng bênh vực những người nghèo hèn, bé mọn hoặc tội lỗi. Hành
động như thế thường gây bất lợi cho giới cầm quyền trong xã hội cũng như tôn
giáo, vì thế các ngôn sứ thường bị họ căm ghét, mạ lị và bách hại (x. Lc 6,23).
Chỉ có các ngôn sứ giả
mới ưu tiên phục vụ những kẻ giàu sang, quyền thế, nhờ vậy mà họ được giới này
ca tụng và ưu đãi (x. Lc 6,26). Họ chỉ muốn phục vụ cho cơ cấu hay tập thể đang
đem lại địa vị, sự ưu đãi và quyền lợi cho họ. Phục vụ Thiên Chúa hay phục vụ
tha nhân nhiều khi chỉ là chiêu bài họ dùng để được quần chúng ủng hộ mà thôi.
Họ chỉ quan tâm phục vụ và củng cố những cơ cấu đem lại lợi ích trần tục cho
họ, chứ không thật sự quan tâm phục vụ Thiên Chúa hay những người cùng khổ.
Ngôn sứ thật và ngôn sứ giả khác nhau ở điểm này, mặc dù bên ngoài họ không mấy
khác nhau. Tuy nhiên phân biệt ngôn sứ thật và ngôn sứ giả rất dễ, chỉ cần nhìn
vào việc làm hay cách hành xử của họ là nhận ra ngay. Đức Giêsu nói: «Hễ cây
tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu,
cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt» (Mt 7,17-18). Những ai chỉ ưu đãi
hoặc coi trọng những người giàu sang quyền thế, đồng thời coi thường hay bạc
đãi những người nghèo hèn khốn khổ, chắc chắn không thể là một ngôn sứ đích
thực.
Ngôn sứ thật thì hành
động như Đức Giêsu: luôn luôn dành thì giờ và năng lực của mình ưu tiên cho
những người bé mọn, hèn kém, đau khổ. Tâm tư Ngài lúc nào cũng hướng đến hạng
người này, luôn tìm cách nâng đỡ, bênh vực họ. Dấu hiệu để nhận ra Ngài có phải
là Đấng Cứu Thế hay không, được chính Ngài xác nhận: «Các anh cứ về thuật
lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được
đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng» (Mt 11,5-6). Ngài thường tự đồng hóa mình với người nghèo
hèn đau khổ, đến nỗi ai làm gì cho những người này là làm cho chính Ngài (x. Mt
25,40.45). Ngài đòi hỏi những ai muốn theo Ngài phải yêu thương người nghèo như
một điều kiện tiên quyết phải có để theo Ngài và để có sự sống đời đời: «Hãy
đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên
trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mt 19,16.21; x. Mc 10,17.21). Các ngôn sứ đích
thực xưa nay đều có tinh thần ấy. Trong thời đại chúng ta, vẫn luôn có những
con người như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jer zy Popieluszko (Ba Lan)… Các
vị này
đã coi việc bênh vực người nghèo, người bị áp bức quan
trọng hơn cả sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống
mình. Họ chính là gương mẫu của những người theo Chúa đích thực.
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã
sinh ra nghèo hèn, đã sống như người nghèo, đã chịu biết bao đau khổ, đã bị
bách hại áp bức. Ngài đã yêu thương người nghèo khổ, tội lỗi, đã ưu tiên dành
thì giờ và sức lực để phục vụ họ. Con là một Kitô hữu, một người muốn theo
Ngài. Xin giúp con nhận thức được rằng, theo Đức Giêsu không phải chỉ là lãnh
nhận bí tích rửa tội, thêm sức hay bất kỳ bí tích nào khác. Không phải chỉ là
vào một hội đoàn, một dòng tu hay chủng viện. Cũng không phải chỉ là làm một
giáo dân, linh mục hay tu sĩ, v.v… Mà là sống theo tinh thần của Ngài, tức tinh
thần từ bỏ mình, quên mình, để xả thân cho anh chị em mình, nhất là những người
đau khổ, nghèo hèn, thấp cổ bé miệng. Chính Đức Giêsu là gương mẫu cho con về tinh
thần này, suốt từ khi sinh ra nghèo hèn đến khi chết thê thảm trên thập giá.
Xin giúp con bắt chước Ngài, sống đúng tinh thần của Ngài.
Joan Nguyẽn Chính Kết