GIÁNG SINH
(LỄ RẠNG ĐÔNG)
(Lu-ca 2: 15-20)
Thánh lễ
Nửa đêm đã tường thuật biến cố Chúa Giê-su ra đời trong một khung cảnh nghèo
nàn, khác hẳn với cảnh ấm cúng và giàu có của gia đình ông Gio-an Tẩy giả. Nhưng chính khung cảnh đơn sơ ấy lại làm nổi
bật lên sứ điệp vô cùng quan trọng cho toàn thể nhân loại: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh
em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2:11). Trước Tin Mừng vĩ đại ấy, nhóm người chăn
chiên và Mẹ Ma-ri-a, những người đầu tiên đón nhận đã có những tâm tình
nào? Thánh lễ Rạng đông và đặc biệt là
bài Tin Mừng sẽ cho ta những câu trả lời.
a) “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã
tỏ cho ta biết”
Đây
là những lời phát tự đáy lòng nhóm người khao khát tìm gặp Đấng Cứu Độ. Ta thử đặt mình trong tâm trạng của những
người chăn chiên để hiểu được quyết định đi Bê-lem của họ. Trước hết họ quyết định ra đi lập tức vào
giữa đêm đông. Thực ra quãng đường
không xa lắm, độ vài cây số thôi. Nhưng
di chuyển ban đêm không phải là dễ dàng, nhất là trong vùng đồi núi và khí hậu
lạnh buốt. Hơn nữa, nếu họ ra đi thì
đoàn vật họ trông coi sẽ ra sao đây?
Vậy động lực nào thúc đẩy họ ra đi?
Chính họ đã nói lên động lực ấy:
để xem sự việc đã xảy ra! Sự
việc đã xảy ra là biến cố “Đấng Cứu Độ là Đấng Ki-tô Đức Chúa đã sinh ra trong
thành vua Đa-vít”.
Chắc
chắn, “xem” ở đây không chỉ mang ý nghĩa xem bằng mắt, nhưng là thấy và nhận ra
ý nghĩa đích thực của biến cố đã xảy ra.
Với con mắt thường, ta xem việc ra đời của một đứa bé không có gì là đặc
biệt, cũng như hằng triệu đứa bé sinh ra mỗi ngày thôi. Trong khung cảnh gia đình, việc ra đời của
một đứa trẻ có thể là một tin vui, một sự mong đợi từ lâu rồi. Nhưng để xem và hiểu được biến cố Đấng Cứu
Độ đã sinh ra cho chúng ta, thì ta phải xem bằng con mắt đức tin, nghĩa là bằng
tất cả tấm lòng yêu mến và tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Tấm lòng ấy đã được các sứ thần ca lên để
ngợi khen Thiên Chúa: Vinh danh Thiên
Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Đúng vậy, tất cả lòng tin yêu của ta được
gói ghém trong lời ca của các sứ thần.
Với con mắt đức tin, ta nhận ra bức tranh Giáng Sinh gồm hai khung cảnh: trời và đất. Trên trời là vinh quang của Thiên Chúa và dưới đất là bình an của
một nhân loại được Chúa yêu thương.
Nhưng quan trọng nhất giữa hai khung cảnh ấy là Hài Nhi Giê-su. Nơi Người chiếu tỏa ra vinh quang của Thiên
Chúa và bình an của nhân loại. Ta chỉ
có thể nhận ra vinh quang của Thiên Chúa trong Chúa Giê-su (Ga 1:14) và ta cũng
chỉ tìm thấy bình an đích thực trong Chúa Giê-su mà thôi (Ga 14:27). Vậy Giáng Sinh, hay “sự việc đã xảy ra như
Chúa đã tỏ cho ta biết”, đó là chân lý Thiên Chúa luôn yêu thương nhân loại nên
giờ đây Người ban bình an cho họ. Hoặc
nói như thánh Gio-an: Thiên Chúa đã yêu
nhân loại đến nỗi cho Con Một xuống để giao hòa nhân loại với Người.
Hành
trình đức tin của những người chăn chiên bắt đầu bằng việc mau mắn làm theo lời
báo tin của các sứ thần. Họ vội vã ra
đi do lòng tin yêu nung đốt. Họ gặp và
chiêm ngưỡng Thánh Gia tại Bê-lem.
Thánh Lu-ca không thể diễn tả cuộc gặp gỡ ấy, vì nó đầy ắp tâm tình tin
kính và yêu mến. Rồi khi họ nói cho
những người khác biết về Hài Nhi, người ta chỉ có phản ứng “ngạc nhiên” mà
thôi. Thiếu con mắt đức tin, người ta
sẽ coi việc sinh ra của Hài Nhi đơn giản như một điều ngạc nhiên. Mà ngạc nhiên là phản ứng nhất thời do đầu
óc chứ không phải do con tim và không phải là hành vi của đức tin. Sau khi thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng,
những người chăn chiên ra về, “vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa”. Nghĩa là đi tới đâu họ cũng ngợi khen Chúa,
chứ không phải chỉ ca tụng Chúa trong Đền Thánh hay nhà thờ. Đức tin đã làm cho họ trở thành những kẻ rao
giảng Tin Mừng trong bất cứ hoàn cảnh nào.
b) “Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ
lại trong lòng”
Chỉ
một câu Kinh Thánh cũng đủ để vẽ lên hình ảnh tuyệt vời Mẹ Ma-ri-a chiêm niệm
biến cố Giáng Sinh. Câu Kinh Thánh mà
Lu-ca viết ở đây về Đức Mẹ có thể áp dụng vào mọi lúc trong cuộc đời của Chúa
Giê-su, vì tất cả những gì xảy ra trong đời của Chúa Giê-su từ giây phút Nhập
thể cho tới lúc tắt thở trên thập giá đều là những kỷ niệm trân quý đối với
Mẹ. Mỗi kỷ niệm, mỗi biến cố trong đời
Chúa Giê-su đều có một ý nghĩa đặc biệt.
Nhưng những ý nghĩa ấy chỉ được sáng tỏ sau khi Chúa sống lại từ kẻ
chết. Do đó Mẹ mới “suy đi nghĩ lại
trong lòng” để luôn luôn sẵn sàng chấp nhận thánh ý của Thiên Chúa.
Ta
thường quá chú tâm đến việc hiểu ý nghĩa mà quên đi mục đích hiểu ý nghĩa để
làm gì. Còn đối với Đức Mẹ, Người “suy
đi nghĩ lại trong lòng” không chỉ để hiểu ý nghĩa, mà là để trân trọng yêu quý
những kỷ niệm về Chúa Giê-su, rồi nhờ những kỷ niệm ấy mà yêu mến chính Chúa
Giê-su.
Khi
truyền tin cho Đức Mẹ, sứ thần Gáp-ri-en đã cho Mẹ biết về sứ mệnh của Chúa
Giê-su. Mỗi danh hiệu như Giê-su, Con
Đấng Tối Cao, Con Thiên Chúa, đều là những đề tài suy gẫm và cầu nguyện của Mẹ
về sứ mệnh cứu thế của Chúa Giê-su. Càng
cầu nguyện, Mẹ càng yêu mến Chúa Giê-su hơn và càng sẵn sàng cùng với Con mình
dấn thân thi hành lời “xin vâng”. Việc
“suy đi nghĩ lại trong lòng” đã sinh hoa trái cho chính Mẹ và cho Chúa
Giê-su. Lời “xin vâng” của Đức Mẹ lúc
Truyền tin chuẩn bị cho lời “xin vâng” của Chúa Giê-su trong Vườn Dầu.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Những
người chăn chiên là những người thay mặt cho một nhân loại được Thiên Chúa yêu
thương và cứu độ. Cũng như họ, tôi có
xác tín rằng tôi là đối tượng của tình thương Thiên Chúa không? Và tôi biểu lộ xác tín ấy bằng cách nào?
Cách
cầu nguyện của Mẹ Ma-ri-a là “suy đi nghĩ lại trong lòng” đòi tôi cần phải xét
lại lối cầu nguyện tôi vẫn thường làm.
Vậy tôi có “suy đi nghĩ lại” hay chỉ cầu nguyện loáng thoáng cho
xong? Tôi cầu nguyện “trong lòng” hay
chỉ “trong trí khôn”? Việc cầu nguyện
có đưa tôi đến mục đích chính là yêu mến Chúa hay chỉ là xin điều này điều kia?
Nhìn
vào hang đá để gặp Đức Mẹ, thánh Giu-se và Chúa Giê-su, tôi có được những kỷ
niệm nào hoặc có được những “lời” nào các Ngài nói với tôi? Cuộc gặp gỡ này có biến đổi con người tôi
như đã biến đổi tâm hồn những người chăn chiên không?
Cầu nguyện
“Giữa
giá rét của mùa đông,
xin
cho con gặp Chúa.
Giữa
những long đong
và
bấp bênh của phận người,
xin
cho con gần Chúa.
Giữa
cảnh nghèo khó và trơ trụi,
xin
cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.
Lạy
Chúa Giê-su bé thơ nằm trong máng cỏ,
xin
cho con cảm được sự bình an của Chúa,
ngay
giữa những âu lo hằng ngày.
Xin
cho con đón lấy cuộc đời con
với
bao điều không như ý.
Và
cuối cùng,
xin
cho con dám sống như Chúa
vì
Chúa đã dám sống như con.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 59)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi