LỄ ĐỨC MẸ LÀ MẸ THIÊN CHÚA
(Lu-ca 2: 16-21)
Năm
431 trên các đường phố tại thành Ê-phê-xô, buổi tối 11 tháng 10 sau khi Công
đồng bế mạc, giáo hữu đã đốt đuốc rực trời, cung nghinh ảnh Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a và cất tiếng tung hô Mẹ với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa. Thời ấy có một số người không muốn nhìn nhận
Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Đó chính là
điều Công đồng đã thảo luận và các nghị phụ đã đồng thanh định tín rằng nơi
Chúa Giê-su bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa kết hiệp với nhau trong
một ngôi vị là Ngôi Hai Thiên Chúa.
Chúa Giê-su thực sự là người và cũng thực sự là Thiên Chúa. Do đó, Đức Mẹ không chỉ là mẹ của một hài
nhi, nhưng cũng là mẹ của Thiên Chúa nữa.
Tuy nhiên, đoạn cuối của bài Tin Mừng hôm nay lại cho ta cơ hội để suy
niệm về thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Mẹ. Thánh sử Lu-ca đã tế nhị ám chỉ thiên chức ấy của Đức Mẹ khi ngài
kể lại biến cố Chúa Giê-su chịu phép cắt bì.
Ngài viết: “Khi Hài Nhi được đủ
tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là
Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt,
trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng mẹ”.
Tên của Hài Nhi nói lên sứ mệnh của Người, nhưng cũng nói lên chức phận
của Đấng đã cưu mang và nuôi dưỡng Người.
a) “GIÊ-SU, đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành
thai trong lòng mẹ”
Mỗi
dự án của ta thường mang một cái tên, thí dụ chương trình Xóa đói giảm nghèo,
Khuyến học dành cho các em học sinh Dân tộc, Chén cơm cho người già neo
đơn... Các chính phủ lại càng nhiều dự
án hơn nữa, nhưng thường thì cái tên thật kêu mà kết quả chẳng là gì cả! Thiên Chúa cũng có một kế hoạch duy nhất và
kế hoạch này mang cái tên thật ngắn gọn:
GIÊ-SU. Giê-su nghĩa là “Thiên
Chúa là sự cứu độ”, hoặc “Thiên Chúa cứu độ”.
Các ngôn sứ trong Cựu Ước đã nói về kế hoạch này, nhất là ngôn sứ
I-sai-a. Nhưng họ chỉ biết diễn tả một
viễn tượng gồm những gì Thiên Chúa sẽ thực hiện cho nhân loại, chứ không thể
đặt cho kế hoạch đó một cái tên đầy đủ ý nghĩa.
Khi
truyền tin, sứ thần Gáp-ri-en đã chuyển lại cho Đức Mẹ sứ điệp của Thiên Chúa
về kế hoạch ấy. “Này đây, bà sẽ thụ
thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là GIÊ-SU”. Rồi sứ thần giải thích ý nghĩa của tên ấy: “Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con
Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngai vàng Vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người
sẽ vô cùng vô tận”. Đó là kế hoạch của
Thiên Chúa để cứu độ một nhân loại đã bị hư mất do tội lỗi. Thiên Chúa muốn tạo dựng một nhân loại mới,
một triều đại mới và vĩnh cửu. Nhưng
Thiên Chúa sẽ thực hiện kế hoạch ấy trong chính lịch sử của nhân loại, cho nên
Người đã chọn một không gian và thời gian là Do-thái, và nhất là Người đã chọn
một “nhà tạm” bằng xương bằng thịt, một “lâu đài Đa-vít” sống động là Mẹ Ma-ri-a,
để bắt đầu thực hiện việc cứu độ toàn diện con người, từ khi thành thai trong
lòng mẹ cho tới giây phút cuối cùng cuộc đời trần gian. Nếu con người nguyên tổ đã đánh mất đi toàn
diện con người mình, từ thể xác cho đến linh hồn, thì giờ đây qua kế hoạch
GIÊ-SU, Thiên Chúa sẽ tái tạo con người theo mẫu mực của Ngôi Lời nhập thể.
Ta
không thể tưởng tượng nổi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chính Người đã tiền định kế hoạch cứu độ và
đích thân thực hiện kế hoạch ấy bằng cách đến với con người. Người có thể đến theo cách của thần thánh,
như Người đã đến với dân Do-thái tại Xi-nai trong sấm chớp vang rền và vô cùng
sợ hãi. Nhưng Người chọn cách đến thầm
lặng và khiêm tốn trong lòng của một trinh nữ, lệ thuộc vào điều kiện vật lý để
lớn lên. Sự phát triển toàn diện và
viên mãn con người của Chúa Giê-su từ lúc thành thai trong lòng Đức Mẹ cho đến
khi phó thác linh hồn trong tay Chúa Cha là tiến trình gương mẫu cho mọi
người. Tuy nhiên, một trong những diệu
kỳ của kế hoạch cứu độ là Thiên Chúa đã chọn cho mình một bà mẹ trần gian để
làm gương mẫu cho mọi người. Một ngày
kia, Thiên Chúa làm người đứng trước đám đông dân chúng và nghe họ khen ngợi Mẹ
Người, Người đã hãnh diện và tế nhị nói về Mẹ Người: “Đúng hơn phải nói rằng:
Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28). Đức Mẹ là Đấng có phúc không những vì Mẹ là
Mẹ Thiên Chúa, nhưng còn vì Mẹ là gương mẫu cho những ai biết lắng nghe và tuân
giữ lời Thiên Chúa.
b) “Bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại
trong lòng”
Để
bổ túc cho lời đám đông ca ngợi Đức Mẹ, Chúa Giê-su đã gọi Mẹ Người là “kẻ lắng
nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Trong
suốt sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su luôn lập đi lập lại câu nói “ai nghe
và tuân giữ lời Thầy, người ấy mới đích thực là môn đệ Người và mới được vào
Nước Trời”. Chắc chắn nói những lời ấy,
Chúa Giê-su muốn ám chỉ về Mẹ Người như một gương mẫu lắng nghe và thi hành lời
Chúa. Từ sau khi được sứ thần truyền
tin và cả trước đó nữa, Mẹ hằng chiêm niệm chân lý và vẻ diệu kỳ trong kế hoạch
cứu độ của Thiên Chúa. Do đó, lúc sứ
thần trình bày kế hoạch ấy, Mẹ đã sẵn sàng chấp nhận và thi hành ý Chúa. Hơn ai hết, Mẹ đã là môn đệ toàn hảo của
Chúa rồi và được Người chọn làm Mẹ Người.
Ghi
nhớ và chiêm ngưỡng ân sủng của Thiên Chúa ban cho Người và cho toàn thể nhân
loại, Đức Mẹ không “suy đi nghĩ lại” một cách thụ động hay tính toán, nhưng là
để biết quảng đại hơn. Càng nhận ra mức
độ bao la của tình yêu Thiên Chúa, Đức Mẹ càng muốn đáp trả một cách quảng đại
hơn. Não trạng của người đời là vênh
vang khi mình có chức phận. Còn Đức Mẹ
thì ngược lại, Mẹ không tự mãn với vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ càng
nhận rõ hơn tình thương Chúa dành cho “phận nữ tỳ hèn mọn”, để rồi từng giây
từng phút trong cuộc đời, Mẹ chỉ hết lòng “ngợi khen Đức Chúa” và “thần trí hớn
hở vui mừng” khi thấy kế hoạch cứu độ của Đức Chúa đang được thực hiện.
Gương
mẫu này bắt ta phải xét lại lối sống của ta.
Thử hỏi có gì tốt trong đời ta lại không phải là ân sủng Chúa ban? Vậy mà ta dễ dàng quên đi nguồn gốc của ân
sủng. Nhiều khi ta còn cho đó là tự tay
ta tạo nên, thay vì nhận biết chúng đến từ Thiên Chúa. Ta không muốn làm “phận nữ tỳ hèn mọn”,
nhưng muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống. Thay vì suy đi nghĩ lại những ân sủng để nhận biết quyền năng và
tình thương của Chúa, ta lại tính toán chuyện leo cao hơn nữa trên đường danh
vọng và không muốn ai hơn mình. Mẹ
Ma-ri-a chiêm niệm sự khiêm nhượng của “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không
nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nên đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế” (Pl 2:6), để Mẹ càng sống khiêm nhượng và sẵn sàng chấp nhận mọi hy
sinh, dù phải dâng hiến chính Con của Mẹ cho Thiên Chúa và nhân loại.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Đức
Mẹ cưu mang Thiên Chúa trong lòng và cống hiến Thiên Chúa cho nhân loại, đó là
một ý nghĩa của tước hiệu Mẹ Thiên Chúa.
Vậy tôi có chia sẻ sứ mệnh ấy của Đức Mẹ không? Tôi có Chúa trong tôi như thế nào và tôi đem
Chúa đến cho anh chị em như thế nào?
Tôi
có noi gương Đức Mẹ, lắng nghe và tuân giữ lời Chúa không? Lắng nghe thế nào và tuân giữ ra sao? Đức Mẹ dạy tôi những bài học nào để lắng
nghe và tuân giữ lời Chúa?
Tôi
có chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa dành cho tôi và sống đáp trả tình yêu
ấy theo gương Đức Mẹ không? Tình yêu
Thiên Chúa dành cho tôi được thể hiện trong những điều gì? Tôi đáp lại cách cụ thể như thế nào?
Cầu nguyện
“Lạy
Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa,
xin
gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh
tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin
ban cho con quả tim đơn sơ,
mau
quên những nỗi buồn phiền.
Một
quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu
dàng để cảm thông.
Một
quả tim trung thành và quảng đại,
không
quên ơn, không báo oán.
Xin
tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu
mà không mong được yêu lại,
hân
hoan xóa mình đi
để
Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một
quả tim vĩ đại và bất khuất,
không
khép lại trước những kẻ vô ơn,
không
chán nản trước người lạnh nhạt.
Một
quả tim khắc khoải
lo
tìm vinh danh Chúa Giê-su Ki-tô,
quả
tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết
thương chỉ lành
khi
được sống với Ngài trên trời. A-men.”
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 50)
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
31-12-2005