ĐƯỜNG NÀO CHO CHÚA ĐẾN.
Chúa
nhật I B Mùa Vọng
Mùa vọng chắc chắn là mùa hi vọng. Hi vọng Chúa đến không phải với
những đe loi kinh hồn, nhưng với lời hứa và phần thưởng lớn lao. Dân Do thái đã mong chờ ngày thực hiện lời hứa
ấy hằng bao thế kỷ. Ngày giờ đã tới thật gần. Niềm hi vọng ngày càng lộ diện. Hôm
nay Chúa muốn chúng ta nhận định rõ và kịp thời niềm hi vọng lớn lao đó ngay
trong cuộc sống hiện tại và tương lai của chúng ta.
HI VỌNG ĐÃ VƯƠN LÊN
Từ bao đời, dân Do thái đã chìm sâu trong tăm tối, nhục nhằn và thất
vọng. Không phải cảnh đói khát, nô lệ đã đầy đọa con người. Nhưng chính
trong cảnh sung túc, ngôn sứ Isaia đã phải thốt lên : “Lạy ĐỨC CHÚA, tại sao Ngài
lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài ? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra
chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài” ? (Is 63:17) Tình trạng càng bi thảm
chỉ “vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn đến, và để cho tội ác chúng con phạm mặc
sức hành hạ chúng con” (Is 64:6).
Nhưng niềm hi vọng vẫn chưa tiêu tan. Mối liên hệ vẫn còn đó.
Thật vậy, “Ngài là Cha chúng con ; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài,
chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con” (c.7). Bởi đó Ngài là ông chủ có toàn
quyền trên mạng sống và cuộc đời chúng con. Nhưng Ngài cũng là Từ Phụ đối với dân Chúa. Chính vì thế niềm hi vọng càng lớn lao khi họ
thưa với Chúa : “Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp
của Ngài, xin Ngài mau trở lại” (Is 63:17). Tiếng kêu ngày càng thống thiết :
“Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan”
(c.19).
Ngài đã xé trời ngự xuống thật sự nơi con người Đức Giêsu. Ngài đã đến,
mang theo ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Người đến không phải chỉ cứu rỗi các
linh hồn, nhưng cứu toàn thể con người. Người đến rồi Người đi. Đó là một cơ hội
bằng vàng, ngàn năm một thuở. Bởi thế “phải tỉnh thức” (Mc 13:33), “phải canh
thức !” (c.37) để khỏi bị vuột mất cơ hội đó.
Nếu biết lúc nào chủ về, chắc chắn chúng ta sẽ chuẩn bị chu đáo. Nhưng
Chúa là “ông chủ đến bất thần” (c.37). Bởi vậy sẽ có nhiều người “đang ngủ”
(c.36), nghĩa là còn mê man với bao mộng đẹp trần gian. Hình ảnh tươi sáng của
Người sẽ làm lu mờ và tiêu tan tất cả mộng đẹp đó. Nếu chỉ quen với bóng đêm
hay bóng đèn mờ, mắt có thể bị mù khi ánh sáng mặt trời xuất hiện. Làm sao có
thể thích ứng kịp với thứ ánh sáng đó nếu chúng ta còn li bì hay cuộn tròn
trong cái tôi kệch cỡm của mình. Từ cái tôi đã phát sinh mọi bất công và bất hòa.
Chỉ Người mới là niềm hi vọng cho muôn
dân vì đã chiếu toả khắp trái đất ánh sáng
công lý và hòa bình.
Nếu thế, việc gì phải run sợ khi Người trở lại lần thứ hai. Lần
thứ nhất Người đã mang đến muôn ân sủng nhờ cái chết và sự phục sinh của Người.
Nếu đón nhận ân sủng đó, chúng ta sẽ hưởng
nền hòa bình đích thực (x.NIV:1991). Tin
vào Đức Giêsu Kitô mới có thể sống bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Từ đó
mới vãn hồi được trật tự xã hội và nối lại tương quan giữa con người với con người.
Quả thực, “một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với
Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5:1). Đức tin là một ân sủng,
một mầu nhiệm vượt trên mọi hiểu biết trần gian. Hòa bình chỉ nằm trong tầm tay
những ai tin nơi Chúa. Chỉ đức tin mới đọc được mầu nhiêm đó và mới thực hiện được
hòa bình thực sự.
Chính trong đức tin đó, tín hữu Côrintô đã “không thiếu một ân huệï
nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang
của Người” (1 Cr 1:7). Ngày Chúa đến không phải là ngày kinh hoàng như nhiều người
lầm tưởng. Đức tin và ân sủng sẽ giúp
ta chuẩn bị đầy đủ tất cả những gì cần thiết cho “ngày của Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô” đến nỗi “không ai có thể trách cứ được” (1 Cr 1:8). Chúng ta sẽ hoàn toàn bình an và vui mừng khi được
chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Làm thế nào để có thể tỉnh thức như Chúa muốn ? Trước hết, phải tìm mọi cách để “lắng nghe Lời
Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người.” (1 Cr 1:5) Thực vậy, chỉ có Đức Kitô mới là Đấng Cứu thế
duy nhất của toàn thể nhân loại, vì Người là “con đường, là sự thật và là nguồn
sống.” (Ga 14:6) Chỉ Người mới mạc khải
hết tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người.
Nhờ đó, chúng ta mới được giải thoát khỏi mọi đam mê và tỉnh thức mong
chờ Chúa đến.
Hơn nữa, muốn tỉnh thức và “vững chắc đến cùng,” (1 Cr 1:8) chúng
ta cần biết rằng “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến
hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu, Chúa chúng ta” (1 Cr 1:9) trong cái
chết và sự phục sinh của Chúa. Đó là cách
phục vụ tuyệt vời nhất cho ơn cứu độ nhân loại. ĐGH Gioan Phaolô II đã nói : “Bất cứ ơn gọi
nào từ Thiên chúa cũng là lời mời gọi phục vụ tha nhân.” (Zenit
24/11/2002) Trong việc phục vụ, Đức Giêsu
đã mạc khải cho mọi người biết cách tỉnh thức và cứu độ muôn dân. “Trong văn hoá ngày nay, người phục vụ bị coi
là thấp kém, nhưng trong lịch sử dân thánh, người tôi tớ được Thiên Chúa mời gọi
để thực hiện một hành vi cứu độ và cứu chuộc đặc biệt” (ĐGH Gioan Phaolô II :
Zenit 24/11/2002)
Đứng trước những đòi hỏi phục vụ, ai cũng ngại ngùng và tránh né. Nhiều người không sẵn sàng ra khỏi cái tôi để
phục vụ tha nhân. Thế nhưng, khi phục vụ,
con người mới khám phá thấy niềm vui trong việc phục vụ. Đây là kinh nghiệm của những người đang xả
thân hi sinh cho gia đình, họ đạo, bệnh viện, các miền truyền giáo v.v. Chính nhờ phục vụ, “anh em không thiếu một ân
huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh
quang của Người.” (1 Cr 1:7) “Chỉ trong phục vụ con người mới khám phá thấy địa
vị mình và tha nhân. Khi những tương
quan giữa con người đã trở thành nguồn hứng cho việc phục vụ lẫn nhau, một thế
giới mới sẻ thành hình va một nền giáo dục ơn gọi đích thực sẽ tăng triển.” (ĐGH
Gioan Phaolô II : Zenit 24/11/2002) Đức
Giêsu được nêu cao cho các bạn trẻ như “một lý tưởng phục vụ giúp họ vượt qua
những cám dỗ cá nhân chủ nghĩa và ảo tưởng chiếm đoạt hạnh phúc bằng con đường đó. trong tâm hồn nhiều bạn trẻ có sẵn một
khuynh hướng tự nhiên mở ra cho tha nhân, nhất là cho những người cùng khổ. Khuynh hướng đó khiến họ có thể cảm thông, sẵn
sàng quên mình để đặt người khác trên quyền lợi mình. Phục vụ là một ơn gọi hoàn toàn tự nhiên, vì
con người tự bản chất là tôi tớ để phục vụ tha nhân, chứ không phải là chủ nhân
ông của cuộc sống và sự hiện hữu. Việc
bác ái là một hình thức diễn tả tất cả nét tinh thần và tông đồ phong phú nhất.”
(ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit 24/11/2002)
NGÀY CHÚA ĐẾN TRÊN QUÊ HƯƠNG
Thời gian chờ đợi Chúa đến, còn bao nhiêu công việc bề bộn và dở
dang. Thực sự chúng ta không thể nào ngủ yên, khi thấy phần lớn quê hương
yêu dấu chưa đón nhận ánh sáng Tin Mừng, mặc dầu bao mồ hôi, nước mắt và máu đã
đổ ra trên ba thế kỷ. Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II cũng ngạc nhiên: “Thật
là một mầu nhiệm không hiểu tại sao Đấng Cứu thế đã sinh ra tại Á Châu, mà cho
tới bây giờ phần lớn dân cư trên lục địa này vẫn chưa biết tới Người” (Giáo hội
tại Á Châu:1999). Mầu nhiệm làm nhức nhối con tim chúng ta. Sứ mệnh
vẫn còn đó. Trách nhiệm vẫn đè nặng đôi vai. Tại sao chúng ta vẫn không đáp ứng
được những khát vọng dân tộc và niềm hi vọng thời đại ? Có lẽ chúng ta còn nhốt Đức Kitô quá kỹ trong
bốn bức tường nhà thờ chăng ? Chúng ta còn co cụm lại để bảo vệ một thứ
truyền thống hay quyền lợi nào đó, khiến nhiều người chưa nhìn được dung nhan đích
thực của Đức Kitô chăng ? Hay chúng ta còn quá hãnh diện vì đủ thứ hào
quang vây quanh ? Một cộng đồng sẽ mất hết sức sống nếu chỉ quanh quẩn với
quá khứ, dù vàng son mấy chăng nữa.
Mùa vọng là mùa chúng ta hướng tới tương lai với một niềm tin tưởng.
Chúa sẽ đến với dân tộc chúng ta, nếu ngay từ bây giờ chúng ta cùng với vị Chủ
Chăn tối cao của Hội Thánh nhìn sâu vào quá khứ và hướng thẳng về đằng trước.
Trong một diễn văn tại Hội Nghị các Giám mục Á châu tại Manila, Đức Giáo Hoàng
nói : “
Chắc chắn cái nhìn đó phải bao trùm cả quê hương chúng ta. Đức Giáo
Hoàng luôn ưu ái dân tộc Việt Nam. Tình thương đó đã được biểu lộ nhiều lần, nhất
là trong dịp Kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La vang và trong việc cứu trợ đồng
bào miền Trung. Tại sao quê hương nhỏ bé của chúng ta lại chiếm được cảm tình đặc
biệt của Đức Thánh Cha ? Chẳng phải vì Người kỳ vọng gặt hái được một mùa
màng tươi tốt trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam hay sao ? Nước Chúa sẽ đến, nghĩa là sự công chính,
bình an và hoan lạc sẽ tràn ngập trên quê hương dân tộc chúng ta. Chừng nào chúng
ta mới cùng bắt tay hành động cho niềm hi vọng lớn lao đó ?
Trách nhiệm đó trước tiên thuộc về Kitô hữu. Để chuẩn bị cho Nước Chúa ngự đến, họ cần ý
thức rằng “loại trừ những nguyên nhân sâu xa sinh ra nghèo đói và thất vọng, làm
cho mỗi người có phẩm giá cơ bản, là bổn phận thiêng liêng của mọi dân tộc, đặc
biệt của những người đang nắm quyền cai trị.” (ĐGH Gioan Phaolô II : Zenit
22/11/2002) Để chu toàn bổn phận đó,
Kitô hữu không thể hành động đơn độc.
Trái lại, họ phải đối thoại để tìm thế liên kết và hợp nhất với những người
thiện chí, dù họ khác chính kiến hay tôn giáo với mình. Không có tinh thần đối thoại, dù là Kitô hữu,
họ cũng không phải là những người có thiện chí. Thật vậy, “nguồn gốc sinh ra mọi xung đột thường
nằm trong những người không cởi mở cõi lòng với Thiên chúa.” (TGM Michael
Fitzgerald: Zenit 22/11/2002) Trước những
cuộc bạo động hôm nay, TGM Michael Fitzgerald nói: “Ai cũng biết đâu là nguyên
nhân cuối cùng sinh ra các cuộc chiến tranh.
Bởi vậy, trên hết chúng ta cần cùng nhau khám phá ra những nẻo đường dẫn
tới hoà bình. Như những người tin tưởng
vào một Thiên chúa duy nhất, chúng ta thấy mình phải cố gắng tạo lập hoà
bình. Các Kitô hữu và các người Hồi giáo
đều tin rằng hoà bình trên hết là một hồng ân Thiên Chúa. Bởi thế, cả hai cộng đoàn chúng ta đều cầu
nguyện cho hoà bình. Đó là điều chúng
ta luôn được kêu gọi thực hiện. Trong
việc kiến tạo và duy trì hoà bình, các tôn giáo đóng một vai trò quan trọng. Hơn bao giờ, ngày nay các xã hội dân sự và
chính quyền đều nhìn nhận điều đó. Phải
nhìn nhận những nẻo đường hoà bình bao gồm cả việc giáo dục, vì qua việc giáo dục
con người có thể học cách nhìn nhận bản thân và tha nhân. Giáo dục hoà bình cũng bao gồm việc nhìn nhận
và chấp nhận sự khác biệt. Hiện nay sự
cộng tác giữa những người Hồi giáo và Kitô hữu, nhất là tái duyệt cách vô tư các
sách giáo khoa cho học đường.” (Zenit 22/11/2002) Nếu công cuộc này được thực hiện khắp nơi,
chắc chắn tương lai thế giới sẽ thay đổi sâu xa. Đó là
dấu chỉ hoà bình, là cách nhân loại đang dọn đường cho Chúa đến.
Lm. Giue Đỗ Vân Lực,
OP