CUỐI ĐƯỜNG
HẦM HAY TRÊN ĐỈNH NÚI ?
Chúa Nhật 2 B Mùa Chay
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng
có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di
chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng
tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định
được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng
thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về
ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên
núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng.
Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng
cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày
lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu
diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào
con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm.
Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm
tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một
chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày
quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương
lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng
lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những
cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới
đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực
rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3)
Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân
xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy.
Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự
khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói
theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường
dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được
lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày
là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ
mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị
lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện
thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng
niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh
bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về
dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ
các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám
mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha : “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng
nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào ! Tất cả cơ nghiệp
Chúa Cha là Đức Giêsu ! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi
sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả
phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ
bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con
Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm
8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã
hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent
Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên
tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết”
(Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu
là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không ? Vậy
mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận ! Bởi vậy
từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp
nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải
đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng
túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh
nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo
dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông
không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn
các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”.
Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu
hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông ? Làm
sao các ông quên được lời phán từ đám mây : “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời
Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng
dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm
trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi
xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ
sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là
bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm
nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của
Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại
cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc
9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu
Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669)
Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện
tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn
còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện
diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên
sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và
sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố
đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực
hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella
1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa
một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh
liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm
ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên
Chúa là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri : Zenit
12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP