GIAO ƯỚC MỚI
Chúa Nhật 3 B Mùa Chay
Lời
hứa có một ảnh hưởng nào trong cuộc sống ? Hôn ước cũng chỉ là một lời hứa vắn
tắt, nhưng ràng buộc con người suốt đời.Thiên Chúa cũng bị lời hứa ràng buộc.
Giao ước chính là lời Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Nhưng rõ ràng có một sự
khác biệt lớn lao giữa Thiên Chúa và con người trong việc giữ lời hứa. Chính nhờ
lời hứa, giá trị được xác định. Vì chữ tín càng cao, con người càng được mọi người
kính nể. Chúng ta thử xem Thiên Chúa đã giữ lời hứa như thế nào trong khi thiết
lập tương giao với nhân loại.
TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU
Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả uy quyền khi thiết lập giao ước với loài người.
Chính vì yêu thương, Chúa đã hạ cố đến với Môsê. Người đã dẫn ông qua những nẻo
đường, đến tận núi Sinai để thiết lập giao ước với dân tộc Do thái. Mười Điều Răn
chính là cách diễn tả cụ thể giao ước đó (Faley 1994:244). “Mười Điều răn thể
hiện quyền bình Thiên Chúa trên chúng ta” (Disciples in Mission, Homily Guide,
Lent Cycle B 1999:13). Quyền bính ấy không nhằm đè bẹp, nhưng thăng tiến con người.
Con người chỉ thực sự thăng tiến khi biết rõ mình là ai trong tương quan với
Thiên Chúa và tha nhân. Bởi vậy “ trước khi ban Mười Điều Răn cho Israel, Thiên
Chúa mạc khải Người là ai. Israel khám phá mình là ai khi đáp trả lại lời Thiên
Chúa mời gọi bước vào tương quan giao ước, nhờ vậy có một căn tính mới”
(Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:13). Quả thực chính nhờ
giao ước, Do thái thực sự được Chúa yêu thương và trở thành người con đầu lòng
của Thiên Chúa. Họ rất hãnh diện vì như chiếm được lòng ưu ái của Thiên Chúa,
trong khi dân ngoại bơ vơ giữa đủ thứ thần tượng. Nhờ thực thi giao ước, họ sẽ
chiếm được niềm hi vọng thiên sai.
Chính vì thế, Đức Giêsu đã sinh ra trong dân tộc Do thái. Người đến để thực hiện
tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa qua giao ước. Thiên Chúa phải được tôn thờ là
vị Thần độc nhất. Đối với Do thái, nhận thêm một vị thần vào bảng phong thần không
khó lắm. Nhưng tôn thờ Người là vị thần độc nhất, loại trừ tất cả các thần khác
là cả một vấn đề. “Giới răn thứ nhất (cc.3-6) là một cách diễn tả niềm tin độc
thần trong thực tế” (Faley 1994:245). Đền thánh là lãnh vực tuyệt đối dành cho
một mình Giavê mà thôi. Nếu ai đem thần ngoại bang vào đền thờ, tức là chối bỏ
Giavê. Xúc phạm tới đền thánh tức là xúc phạm tới Thiên Chúa. Đền thờ trở nên
trung tâm sinh hoạt tôn giáo và chính trị của toàn dân. Đó là biểu tượng của niềm
tin và hi vọng. Dân tộc trở thành một cộng đồng qui tụ quanh đền thờ. Cộng đồng
đó cần được Thiên Chúa hướng dẫn về Đất hứa.
“Mười Điều Răn đã được Thiên Chúa phác họa để dẫn dân Do thái tới một cuộc sống
thánh thiện trong thực tế. Trong Mười Điều Răn đó, họ sẽ nhìn thấy bản tính Thiên
Chúa và kế hoạch Người chỉ vẽ cho dân lối sống. Mệnh lệnh và những chỉ dẫn nhằm
hướng dẫn cộng đoàn gặp gỡ từng nhu cầu cá nhân một cách đầy thương yêu và có
trách nhiệm” (Life Application Study Bible 1991:136). Thực hành Mười Điều Răn là
cách duy nhất để cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa đối với dân Người.
Biểu tượng của tình yêu và niềm hi vọng chính là đền thờ. Bởi vậy mỗi khi nhìn đến
hay hướng về đền thờ, dân Chúa vô cùng phấn khởi và hăng say giữ tất cả những
gì Thiên Chúa đòi hỏi qua giao ước. Họ không cảm thấy gò bó hay miễn cưỡng khi giữ
luật vì đó là “phương tiện duy nhất chu toàn luật thương yêu của Thiên Chúa”
(Life Application Study Bible 1991:136). Ngày sabát là một bằng chứng. Chính vì
biến phương tiện thành mục đích, người Do thái đã đánh mất nét tinh hoa cao quí
nhất của lề luật. Nói khác, khi không còn là phương tiện đạt mục đích Thiên Chúa
đã vạch ra, luật lệ hay đền thờ trở thành những thứ thừa thãi, vô bổ.
Chính vì thế Đức Giêsu mới không ngần ngại nổi nóng với những lạm dụng đền thờ,
cản trở việc thờ phượng. Làm sao có thể tưởng tượng nổi một Đấng “hiền hậu và
khiêm nhường” (Mt 11:29) lại có thể “lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn
họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ
tung ra, và lật nhào bàn ghế ho.” (Ga 2:15). Giữa chốn ồn ào hỗn loạn đó, chắc
chắn Người đã phải quát lên : “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến
nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” (Ga 2:16). Công cuộc thanh tẩy Đền Thờ làm Người
hầu như quên bản chất hiền lành của mình. Người sẵn sàng vượt lên trên mức thường
tình để thanh tẩy Đền Thờ. Người còn muốn cho mọi người thấy mạc khải lớn lao về
bản chất đích thực. Người chính là Đền Thờ mới thay thế Đền Thờ cũ vào thời Thiên
sai (Ml 3:1-4; Dcr 14:21). Bởi thế, “hành động của Đức Giêsu mang tính cánh
chung, thúc đẩy người Do thái thắc mắc về tư cách Thiên sai của Người” (Ga
2:18) (Faley 1994:248). Thắc mắc đó phải đợi sau cái chết và phục sinh của
Người được trả lời thỏa đáng. “Đền Thờ ấy sẽ được một thực tại mới thay thế là Đức
Kitô tràn đầy Thần khí” (Faley 1994:248). Chính nơi Người, Thiên Chúa sẽ hiện
diện cách sung mãn và sống động nhất. Người sẽ trở nên trung tâm thu hút mọi người
về với Thiên Chúa. Quả thế, sau khi phục sinh, Đức Giêsu là nơi nhân loại tìm được
dung nhan Thiên Chúa và sự tôn thờ đích thực trong “thần khí và sự thật”
(4:23-24). Trước đó, Người đã làm nhiều dấu chỉ chứng tỏ nơi Người, sự thật mới
đạt đến độ sâu sa nhất. Vì nhờ thiên tính, Người đã đi sâu vào tận bản tính nhân
loại (c.25; 1:47).
ĐỀN THỜ HÔM NAY
Đức
Giêsu cũng muốn thanh tẩy Đền Thờ hôm nay là Giáo hội. Nếu Giáo hội không được
thanh tẩy, những hoạt động trần tục sẽ che khuất dung nhan Thiên Chúa trước mắt
mọi người. Nói khác, chính vì Giáo hội quá nặng nề với lỗi lầm quá khứ, những
nghi lễ và luật lệ rườm rà, nhiều người đã không thể đến được với Chúa Kitô. Bởi
đấy, ngày 12.3.2000, ĐGH Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục trước mắt
toàn thể nhân loại. Giáo hội đã tự thanh tẩy. Đúng hơn, Thánh Linh đã thanh tẩy
khuôn mặt Giáo hội, không phải để Giáo hội được nổi tiếng, nhưng để mọi người
nhận biết Đức Kitô là “sự thật và là sự sống” (Ga 14:6), có sức giải thoát nhân
loại khỏi mọi cảnh khốn cùng hiện tại.
Trong khi rao giảng Đức Kitô, Giáo hội nhìn nhận lịch sử Giáo hội là một chuỗi
“các tội đã phạm trong khi phục vụ chân lý, các tội đã làm tổn thương đến sự hiệp
nhất Kitô giáo, các tội chống lại dân tộc Israel, các tội chống lại tình yêu, hòa
bình và kính trọng đối với các nền văn hóa và các tôn giáo, các tội chống lại
phẩm giá của người phụ nữ và sự hiệp nhất của loài người, và các tội phạm đến các
quyền cơ bản của con người” (VietCatholic 19/3/2000). Không phải vì những lầm lỗi
ấy mà Giáo hội phải bị phá hủy, vì bản chất Giáo hội vẫn là thánh. Hi vọng sau
lời thú tội này, Giáo hội sẽ phục vụ Thiên Chúa và con người đắc lực hơn. Mọi
người có thể dễ dàng đến với Đức Kitô qua cung cách khiêm nhường của Giáo hội.
Nhân loại như bước vào “thời gian hòa giải, thời gian cứu độ cho tất cả mọi người
tín hữu và cho tất cả mọi người đang tìm kiếm Thiên Chúa !” (ĐGH Gioan Phaolô
II, “Ngày Xin Ơn Tha Thứ”, VietCatholic, 19/3/2000). Đức Giáo Hoàng đã tô một nét
son thật đậm vào lịch sử Giáo hội. Các Giáo hội địa phương cũng theo gương sáng
đó. Chẳng hạn tại Giáo hội Hoa Kỳ, các Đức Hồng y Roger Mahony, TGM Los
Angeles, đã xin lỗi cả những người đống tính luyến ái và những tín đồ thuộc các
tôn giáo khác. Người cũng xin lỗi cả những gia đình hay cá nhân về những lạm dụng
tình dục của một số linh mục. Đức Hồng y Bernard Law tại Boston cũng xin lỗi về
nạn nô lệ tại Hoa Kỳ. Các Giám mục Âu châu cũng thú nhận người Kitô hữu đã không
cố sức cứu người Do thái trong thời Đệ nhị thế chiến (VietCatholic 19/3/2000).
Lm. Đỗ Vân Lực, OP