CHÂN DUNG
NGƯỜI MÔN ĐỆ
Chúa nhật 2 B Thường niên
Hình ảnh con chiên rất quen thuộc trong cả văn học lẫn cuộc sống Tây Phương. Con
chiên đã thành một đề tài hấp dẫn trong Thánh Kinh, nhất là từ tiên tri Isaia. Người
Tôi tớ Đau khổ “giống như con chiên bị đem đi giết” (Is 53). Con chiên vô tội
chính là Con Thiên Chúa xuống trần chết thay cho muôn dân, như thánh Gioan Tẩy
giả giới thiệu : “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga
1:29).
Hình ảnh con chiên không hề xuất hiện trong văn chương và dân gian Việt
Nam. Nếu Kitô giáo không du nhập Việt Nam, chắc hình ảnh con chiên không
bao giờ lọt vào văn học. Trái lại con dê lúc nào cũng có sẵn trong nền văn
học dân gian. Con dê là một trong 12 con giáp. Con dê thành đề tài đàm tiếu
cho bao câu truyện dân gian.
Chiên hay dê, mỗi con một vẻ. Nhưng nếu đặt
chiên và dê bên nhau, tự nhiên một hình ảnh đầy ý nghĩa xuất hiện. Chiên càng
đơn sơ bao nhiêu, dê càng phá phách, càng “dê” bấy nhiêu. Hình ảnh con chiên đạt
tới ý nghĩa phong phú nhất nơi Chiên Thiên Chúa. Vì Chiên Thiên Chúa đã trả lại
cho nhân loại tất cả những giá trị cao đẹp nhất.
CHIÊN THIÊN CHÚA
Chiên Thiên Chúa đã hi sinh để cứu nhân loại và qui tụ một
cộng đoàn dân Chúa. Thánh Gioan Tẩy giả không ngần ngại giới thiệu với các
môn đệ con người đến với sứ mạng lớn lao. “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi
theo Đức Giêsu”(Ga 1:37). Theo lời mời của Chúa,“họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở
lại với Người”(c.39). “ Ở lại” để đi vào tương quan tình yêu thâm sâu với Người,
như “Thày ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thày”(Ga 14:10). Từ hiệp thông
sự sống với Chúa Cha và Chúa Con nhờ Chúa Thánh Linh đó, hai ông đã trở thành môn
đệ đích thực của Đức Giêsu (x.Fahey 1994:103). Họ đã “xem” thấy tất cả nét
huyền nhiệm và cao cả của Chiên Thiên Chúa. Mạc khải đã hé lộ dần dần. Lần
lượt Đức Giêsu được nhận diện là “Thày” (c.38), “Mêsia” (c.41), “Con Thiên Chúa
và Vua Israel” (c.49). Sứ mệnh Người vượt quá lãnh thổ một dân tộc. Người
đến nối kết đất trời (c.51). Các ông đã “xem” thấy tất cả ý muốn của Thiên
Chúa khi kêu gọi các ông. Đó là dấu chứng tỏ các ông luôn tỉnh thức như
Samuel khi nghe tiếng Chúa gọi. Ông đã sẵn sàng đáp lại và vâng phục ý Chúa
(x.1 Sm 3:10). Đó chính là kết quả sau bao tháng năm “ở lại” trong nhà Chúa. Các
ông đã sống và chết vì chân lý vô cùng phong phú đó. “Đặc điểm người môn đệ
Đức Giêsu trong Tân Ước là luôn luôn làm chứng và gắn bó với con người Đức Giêsu”
(Walter 1994:295).
Khi “ở lại” với Đức Giêsu, các môn đệ Gioan đã thấy những
nét gì đặc biệt nơi Đức Giêsu ? Chắc chắn các ông đã thấy nét đơn sơ
và khó nghèo của Chúa. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người
không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20). Các ông cũng đã thấy những nét đó nơi sư phụ
Gioan. Nhưng hơn Gioan, Đức Giêsu cho các ông thấy tương quan với những người
nghèo và những người bị áp bức trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng. “Kẻ nghèo được
nghe Tin Mừng” (Mt 11:5) và “phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước
Trời là của họ”(Mt 5:10).
CỘNG ĐOÀN MÔN ĐỆ
Chính vì địa vị ưu tiên của người nghèo trong Tin Mừng,
nên Giáo hội được thành lập để phục vụ người nghèo. Khi phục vụ như thế,
người môn đệ làm cho Nước Trời thành hiện thực hoàn toàn. “Tự bản chất, Giáo
hội là cộng đoàn các môn đệ” (Rausch 1993: 282). Nhưng “quá nhiều khi trong quá
khứ đời sống đạo đức đã lấy thánh hóa bản thân làm mục đích chính yếu, trong
khi việc phục vụ hay thừa tác vụ lại bị coi là thứ yếu” (Rausch 1993:284). Bản
chất Kitô hữu là phục vụ. Coi việc phục vụ đánh mất phẩm giá Kitô hữu tức là chưa
hề biết Chúa Kitô là ai. Chúa có mất nhân phẩm khi quì xuống rửa chân cho
các môn đệ không ? Người không công bố Tin Mừng cho một thiểu số ưu đãi. Nhưng
linh đạo Kitô thực hiện ngay trong đời sống cụ thể hằng ngày của mọi người. Tinh
thần Kitô đòi người môn đệ phải hi sinh tới cùng, sẵn sàng coi mọi người hơn
mình và phục vụ mọi người, không trừ ai (x.Mc 9:35).
Người môn đệ không biết đến lối sống kiểu cách và cô độc. Trái
lại họ luôn “sống đơn sơ và liên đới với người nghèo và bị áp bức” (Rausch
1993:283). Đó là đặc điểm dễ nhận thấy nhất của một người môn đệ Kitô đích thực. Trong
một xã hội đầy nhóc những người giàu bên cạnh những người đói nghèo, môn đệ
Chúa Kitô luôn đứng về phe người nghèo. Mẹ Têrêsa Calcutta đã hòa mình với
những người nghèo khổ nhất trong những người nghèo. Thời Đệ Nhị Thế Chiến,
Dietrich Bonhoeffer, một mục sư người Đức, đã rời bỏ nếp sống bình yên tại Mỹ,
trở về Đức sát cánh với dân tộc chống lại Hitler. Ông đã chết vì tình liên
đới với người cùng khốn.
Người môn đệ chân chính của Đức Kitô khởi hành từ niềm
tin. Không tin không thể dấn thân cho tha nhân. Vì dấn thân
phát xuất từ một con tim xác tín và nồng cháy tình yêu Chúa. Không có sự gắn
bó bền chặt đó, không thể hoạt động hay tạo nổi giá trị đích thực Kitô giáo. Cụ
thể hơn, làm môn đệ Đức Kitô nghĩa là cùng chết và phục sinh với Người trong bí
tích
Cộng
đoàn môn đệ Đức Giêsu chính là “một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi,
thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ đứng trước Con Chiên”(Kh
7:9). Phải chăng hình ảnh lý tưởng đó chỉ kiếm được trên thiên đàng ? Không,
Đức Giêsu muốn thấy hình ảnh đó ngay trên trần thế. Cho tới công đồng
Vatican II quần chúng vẫn quan niệm chỉ những tu sĩ và giáo sĩ mới là các môn đệ
Chúa Kitô. Nhưng “từ thời Cải Cách, anh em Tin Lành đã quan niệm toàn thể
cộng đoàn Kitô hữu là môn đệ Đức Giêsu” (Egan 1995:420). Nếu thế, tất cả đều phải
theo Chúa Kitô. Không còn cảnh một bên là chủ chăn và bên kia là đoàn chiên
thụ động. Không môn đệ nào có quyền khoanh tay đứng nhìn người khác dấn thân. Tất
cả đều thuộc về Chúa Kitô, chứ “đâu còn thuộc về mình nữa” (1Cr 6:19)â. Nếu “đã
kết hợp với Chúa, thì (chúng ta) nên một tinh thần với Người”(c.17). Đã đến lúc
người giáo dân phải thực sự ý thức giá trị cao quí của mình, “vì Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc anh em về” (c.20). Bởi đó tất cả đều hoạt động “để phụng sự
Chúa” (c. 13) và “tôn vinh Thiên Chúa”. Đừng đợi tới lúc “mục tử tách biệt
chiên với dê” (Mt 25:32) chúng ta mới bừng tỉnh ! Vì “đêm đến, không ai có thể
làm việc được” (Ga 9:4).
Lm. Giuse Đỗ vân Lực,
OP