tôi là mỤC tỬ nhân lành
(Gioan 10,11-18 – CN
IV PS - B)
1.- Ngữ cảnh
Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và
người Mục tử (Ga 10,1-21) vừa chấm
dứt các Diễn từ dịp Lễ Lều vừa đưa vào Diễn từ dịp Lễ Cung hiến Đền Thờ.
Bản văn có thể được phân bố tổng quát
như sau:
1) Các dụ ngôn (10,1-5);
2) Phản ứng của người Do Thái (10,6);
3) Các giải thích:
a) Cửa (10,7-10),
b) Người mục tử (10,11-18);
4) Phản ứng của người Do Thái (10,19-21).
Hôm nay, chúng ta đọc phần giải thích Người mục tử (10,11-18).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Người mục tử đích thật (10,11-13);
2) Người mục tử ưu việt (10,14-18).
3.- Vài điểm chú giải
- nhân lành (11): Hy-ngữ có hai
từ để nói là “tốt”: (1) agathos mô tả
đức tính luân lý của một cá nhân được coi là tốt; (2) kalos, cũng có thể dịch là “đẹp”, thêm
vào yếu tố “tốt” một nét nói lên sự thu hút và đồng cảm. “Từ “nhân lành” hay
“tốt” ở đây là tính từ kalos.
- hy sinh
mạng sống (11): Dịch sát là “đặt/hạ mạng sống xuống” (cc. 11.15.17). Đây là
công thức của Ga (13,37; 15,13; 1 Ga 3,16). Theo ngữ cảnh, công thức này
tương đương với các công thức của TMNL,
“hiến mạng sống” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
- chiên
của tôi
(14): Đức Giêsu có thể nói các con chiên là của Người vì Chúa Cha đã ban họ cho
Người (x. 6,37.44.65; 17,6-7).
- một
đoàn chiên và một mục tử (16): Chúng ta ghi nhận
một chọn lựa thú vị của cha R.E. Brown trong bản dịch Anh ngữ: có thể dịch “một
đoàn chiên” là “a flock of sheep”,
nhưng cha Brown dịch là “one sheep herd” đi với “one shepherd” để giữ cho tương
ứng với poimnê (sheep herd, flock) và
poimên (shepherd).
- Tôi có
quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (18): Chúng ta ghi
nhận cách viết của tác giả nhằm nhấn mạnh: từ “quyền” được dùng hai lần và đặt
ở đầu câu, tạm dịch là “quyền tôi có
/ để hy sinh mạng sống, và quyền tôi
có / để lấy lại mạng sống”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Cựu Ước, hình ảnh người mục tử
thường được áp dụng cho các vua. Nhưng hình ảnh mục tử và con chiên là một hình
ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn,
tức
Thiên Chúa luôn ở về phía những người bị áp bức, Ngài hứa rằng chính Ngài
sẽ chăm sóc con chiên, và Ngài sẽ gửi đến cho họ một mục tử chân chính, để điều
khiển họ trong sự công chính và đưa lại bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6). Khi
Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14), thì lời Thiên
Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà
không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho
đoàn chiên” (5 lần: cc. 11.15.17.18 [2 lần]). Giữa Người và đoàn chiên, có một
sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức
Giêsu và đoàn chiên (c. 14) cũng như giữa Đức Giêsu cùng đoàn chiên với Chúa
Cha (cc. 15.18).
Các
lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các
độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu:
mầu nhiệm Vượt Qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
* Người mục tử đích thật (11-13)
Đức
Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. “Nhân
lành” không có nghĩa tình cảm, là “dịu dàng, êm ái”, nhưng là “chân chính, đích
thực”. Từ ngữ này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng
(điều hành), nhưng còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng
hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên
tư cách Mục Tử nhân lành của Người không phải là tài vuốt ve các con chiên,
nhưng chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người
có một cảm thức về trách nhiệm:
“các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ
chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề
chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai.
Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên;
buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn
những ai làm mục tử chỉ vì chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối
với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê”, “khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà
chạy” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con
chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc
chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và
khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm
thức về sự “thuộc-về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người
ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục
tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ
không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng thâm chí hy sinh
cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự
dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: “tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự
dấn thân này không có giới hạn: cách thức Người làm việc để có sự sống là Người
ban tặng chính sự sống của Người: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục
tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy
sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa
chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi
mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn
chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho chúng ta. Điều này
hoàn toàn ngược lại với người làm thuê, anh ta “không thiết gì đến chiên” (c. 13)
* Người mục tử ưu việt (14-18)
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa:
phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người
mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy
sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến
mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển
khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một
tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành
với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, thể lý, vô ngã. Trái
lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình
hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga
1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết tôi…” (c.
15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha.
Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin
tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết
chiên của tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này,
chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, bừng
cháy. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ
với Người như thế: “chiên của tôi biết tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết”
thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức
Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số; Người biết
lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta – tất cả các đặc điểm
và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng
ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa
chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia:
đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên; chúng
ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát
triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một
tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức
Giêsu, Mục Tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân
lành không giữ thế cách biệt với chúng ta; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé
nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho
đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c.
16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi
tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp
(với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức
Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự
hợp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.
Sự nhiệt thành và quan
tâm của Đức Giêsu-mục tử không giới hạn vào dân
Qua
Đức Giêsu, là mục Tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và
mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự
hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên
minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng
sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị mục tử duy nhất. Tính chất
cao quý của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo
được sự hợp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hợp nhất không tập trung
quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu
mê say và hợp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục
tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu
nhiệm Vượt Qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng
như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào
giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục
tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hợp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến
cuối c. 15, có lời “tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu
của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất; rồi mở
đầu c. 18, lại có lời “tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng
khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến
tạo được “sự hợp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay
cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi
về một mối” (Ga 11,52).
Nhưng
nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa
Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến tôi …” và “đó là mệnh lệnh
của Cha mà tôi đã nhạn được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”.
Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự
trung thành chính là nét làm cho Người là Vị mục tử ưu việt. Sự trung thành này
được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và
được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong
hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (tôi
có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và
trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “tôi đã nhận
được”).
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính
tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và
có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng
2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến
mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền
của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một
điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu
duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu
này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc
bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà
Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ
này.
+ Kết luận
Bản văn này, với giọng văn đơn giản nhưng
chắc nịch, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc
khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh
sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục Tử của
Cựu Ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mong ước
mong.
Các môn đệ của Chúa Kitô phải chứng tỏ
một lòng quảng đại như Thầy mình, và phải để cho mình được dẫn dắt bởi tình yêu
mà thôi. Nếu chỉ quan tâm đến việc tuân giữ một luật lệ, hoặc làm tối thiểu
những gì được quy định, họ không hiểu thế nào là tình yêu chân chính. Có tình
yêu trung thực là phải sẵn sàng (tự do) hy sinh mạng sống cách vô vị lợi, như
Chúa Kitô.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nói tới “mục tử”
là nói tới tương quan. Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và
đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên các sản
phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình:
len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v. Nói cách khác, đây không chỉ là một tương
quan sở hữu. Trong thế giới Kinh Thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương
quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau
tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng
mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng
nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác.
2. Chính vì tương
quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi
nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu
vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Ngài với
Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu
mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải
chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời
Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng ngôn sứ Êdêkien (Ed, ch. 34).
3. Trách nhiệm lớn
của một mục tử là đời sống của con chiên. Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục
tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm. Người mục tử bên
Paléttina hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì
xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là
không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh
Thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục sống hoàn toàn cho con chiên, anh
chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng
sống (x. Đavít: 1 Sm 17,34-35).
4. Lòng nhiệt thành
của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Tv 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh
Thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình
yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối
phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm
trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm
mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh
họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).
5. “Tôi biết chiên
của tôi …, như Chúa Cha biết tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu
biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự
hiểu biết tương đương với sự hiểu biết
nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế,
con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không
kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Đã được
yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng
ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho
họ, theo gương Đức Giêsu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm