ĐỨC GIÊSU SAI NHÓM
MƯỜI HAI ĐI
(Máccô 6,7-13 – CN
XV TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã thiết lập Nhóm Mười Hai với hai
mục tiêu: họ phải ở với Người và phải được Người cử đi loan báo Tin Mừng và trừ
quỉ (Mc 3,14t). Kể từ khi được Người
chỉ định, Nhóm Mười Hai ở với Người, đồng hành với Người, chứng kiến tất cả
hoạt động giảng dạy và tất cả các hành vi quyền lực của Người. Như thế, các ông
chu toàn mục tiêu đầu tiên mà Đức Giêsu nhắm cho các ông, khi các ông cùng đi
với Người trong khi Người chu toàn sứ mạng của Người (x. 1,38).
Đức Giêsu đang đi đường và giảng dạy các làng
trong miền Galilê (6,6). Kế đó, Người cử Nhóm Mười Hai đi, để các ông nối tiếp
công việc của Người.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai
(6,7-11):
a- Nhóm Mười Hai được giao
phó sứ mạng (c. 7),
b- Giáo huấn của Đức
Giêsu về hành trang (cc. 8-9),
c- Giáo huấn của Đức
Giêsu về cách xử sự (cc. 10-11);
2) Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (6,12-13).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Hai (7): Đời tông đồ là một cuộc hành trình để
nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu. Điều này được tác giả Mc diễn tả
bằng cách dùng thuật ngữ “Nhóm Mười Hai” ở 7 điểm quan trọng. Thuật ngữ này trở
đi trở lại theo những khoảng cách đều đặn: từ khi Nhóm được thành lập cho đến
khi tan rã vào lúc Giuđa phản bội, Nhóm được nhắc đến ở mỗi chặng quan trọng.
Các ông đi theo Đức Giêsu từ lời đầu tiên loan báo về Nước Thiên Chúa cho đến
thử thách cuối cùng:
1) Lần
đầu, ở ch. 3: Đức Giêsu “thành lập (= tạo thành) Nhóm Mười Hai, để các
ông ở với Người và để Người sai đi rao giảng” (3,14). Và xa hơn: “Người thành
lập Nhóm Mười Hai” (3,16).
2) Ở ch.
4: “Khi còn một mình Người, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới
hỏi Người về các dụ ngôn” (4,10). Lần đầu tiên Nhóm Mười Hai hỏi riêng Đức
Giêsu: điều này chứng tỏ Nhóm được tuyển chọn để được đào tạo riêng.
3) Ở ch. 6: “Đức Giêsu gọi Nhóm Mười Hai”
(6,7). Trong TM Mc, từ ngữ “tông đồ” chỉ được dùng ở 6,30.
4) Ở ch. 9: Đức Giêsu nhắc bảo các môn đệ vài
điều: “Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm
người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người” (9,35).
5) Ở ch. 10: Đức Giêsu loan báo Người sẽ chết
và sống lại. Đức Giêsu dẫn các ông; các ông kinh hoàng, còn nhưng kẻ theo sau
cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với
các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (10,32).
6) Ở ch. 11: Đức Giêsu đã đi vào Giêrusalem:
“Sau khi rảo mắt nhìn xem mọi sự, Người ra khỏi thành…, và tiến về Bêtania cùng
với Nhóm Mười Hai” (11,11). Câu 11 là như lời dẫn nhập vào hoạt động của
Đức Giêsu tại Giêrusalem (nơi chốn, hoàn cảnh, chương trình hành động), và Nhóm
Mười Hai là những người tháp tùng Người.
7) Ở ch. 14 (tại Giêrusalem): Đây là khởi đầu
cuộc Thương Khó, Nhóm Mười Hai được nhắc đến thường xuyên, nhưng như là
Nhóm trong đó có kẻ phản bội: 14,10.17.20.43. Mỗi lần kẻ phản bội được nhắc tên
cũng là mỗi lần Nhóm được nhắc lại. Ở 14,17, Nhóm Mười Hai được nêu lên như là
những người tháp tùng Đức Giêsu vào Tiệc Ly và đồng bàn với Người.
Khi nêu bật Nhóm
Mười Hai, Mc cho thấy rằng Tin Mừng không phải là một hệ thống
các giáo thuyết hoặc luật lệ. Khi nêu bật Nhóm Mười Hai, Mc cho thấy
rằng Tin Mừng được mạc khải và đón nhận xuyên qua một quan hệ riêng tư với
Đức Giêsu, được truyền đạt bởi những sứ giả được đào tạo từ chính quan hệ này,
và, cuối cùng, điều ngài muốn là đưa độc giả đi dần vào quan hệ riêng tư và
trọn vẹn này với Đức Giêsu.
- Quyền trừ quỉ: Mc trình bày sứ mạng của Nhóm Mười Hai như
là việc nối dài chính sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng và chữa bệnh (chủ yếu là
trừ quỉ).
- không được mang gì đi đường (8): Tình trạng thiếu trang bị
vật chất như thế phản ánh tính cấp bách của công tác và sự tin tưởng ký thác
hoàn toàn vào tay Thiên Chúa.
- chỉ trừ cây gậy: Mt 10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ cầm gậy đi
đường. NJBC giải thích: hoặc bản văn Mc có khuynh hướng chế giảm hoặc
đây là cách đọc sai từ A-ram l’ (“không”) thành ’l’ (“ngoại
trừ”). Hay là phải chăng vào thời Mc, tình thế còn khá nguy hiểm, nên
còn chấp nhận một vài chế giảm như thế?
- bao bị: Từ Hy Lạp pêra
là túi xách để đựng hành trang đi đường hoặc của bố thí.
- được đi dép (9): Mt
10,10 và Lc 9,3 cấm các môn đệ đi
giày; có lẽ đây là cấm đi một đôi dư ra (Mt dùng từ hypodêma, vật
bó dưới chân; còn Mc dùng từ sandalion), bởi vì đi chân không
trên các nẻo đường đầy sỏi đá xứ Paléttina thì rất vất vả.
- hai áo: Từ Hy Lạp chitôn là
áo trong, mặc sát người.
- giũ bụi chân (11): Khi có nơi nào không đón tiếp mình,
người môn đệ được hướng dẫn làm thành một hành vi biểu tượng thôi, chứ không
trả đũa thô bạo. Hành vi này nhằm thúc bách những con người tại nơi ấy phải suy
nghĩ. Hành vi này cũng có thể có liên hệ với việc giũ bụi chân khi trở lại xứ
Paléttina. Khi ấy, ý nghĩa của hành vi này là thành thiếu lòng hiếu khách thì
không thuộc về Ít-ra-en chân chính.
- Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối (12): Câu tóm về
lời rao giảng của các môn đệ làm vọng lại câu tóm về lời rao giảng của Đức
Giêsu trong 1,14-15: các môn đệ chia sẻ sứ mạng của Thầy (x. c. 13).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu ban chỉ thị cho Nhóm Mười Hai (7-11)
Đức Giêsu đã “gọi lại với mình” Nhóm Mười Hai:
điều này chứng tỏ uy quyền của Người và sự chọn lựa của Người. Người cử Nhóm
Mười Hai đi, để các ông nối tiếp công việc của Người. Các hình thái cơ bản
trong hoạt động của các ông là loan báo Tin Mừng và xua trừ ma quỉ (3,14t;
6,7.12t): đây cũng là những nhiệm vụ của Đức Giêsu (1,14t; 1,21-27; 1,39).
Người không chu toàn sứ mạng một mình, nhưng chia sẻ sứ mạng đó cho
những người mà Người đã uốn nắn và đào tạo nhờ tiếp xúc thường xuyên với Người.
Cũng như Người, các ông cũng phải loan báo Tin Mừng là Triều Đại Thiên Chúa đã
gần. Cũng như Người, các ông phải truyền đạt với xác tín cao và vững chắc sứ
điệp vui tươi và giải phóng này: chỉ mình Thiên Chúa là Chúa tể; quyền làm chủ
của Ngài trên muôn loài muôn vật, vào lúc này, người ta chưa nhận ra được,
nhưng đến một lúc nào đó, chắc chắn sẽ tỏ hiện rõ ràng.
Chân lý hệ trọng này, các môn đệ phải loan báo
không những bằng lời nói, mà còn phải cho thấy nó có giá trị thực sự bằng hành
động nữa. Hành trang của các ông chỉ có những gì cần thiết cho một lữ
khách: một cây gậy, một áo choàng và đôi dép. Người ta phải thấy được
rõ ràng là các ông không sở hữu gì cả và các ông không có gì mà mang theo cả,
ngoại trừ sứ điệp của các ông: các ông chỉ là sứ giả mà thôi. Về lối sống của
các ông, Đức Giêsu cho hai chỉ thị: các ông không được đòi hỏi gì và phải ý
thức về sứ mạng của các ông. Các ông phải bằng lòng với mọi kiểu nơi ăn chốn ở
có được, chứ không đi hết nhà này đến nhà kia để tìm được nếp sống thoải mái
hơn. Các ông phải nêu bật ý nghĩa của sứ điệp. Ai không muốn nghe, các ông phải
cho họ hiểu rõ ràng rằng khi từ chối như thế, họ đã lấy một quyết định
hệ trọng trong quan hệ đối với ơn cứu độ: giũ bụi chân để cho hiểu rằng vừa xảy
ra một việc tách biệt quyết liệt, “giữa chúng ta, không còn liên hệ gì
nữa!”. Từ chối sứ giả có nghĩa là từ khước sứ điệp.
* Nhóm Mười Hai thi hành sứ mạng (12-13)
Giữa phần mô tả hoạt động của Nhóm Mười Hai
(6,12t) và việc họ trở về (6,30), TM II không nói gì đến hoạt động của Đức
Giêsu. Hoạt động của các tông đồ có trọng lượng riêng, chứ không phải là một
chuyện phụ thuộc được che phủ bởi hoạt động của Đức Giêsu. Hoạt động của
các ông có trọn vẹn tầm quan trọng của nó. Các ông đã ra đi thi hành hai điều
cốt yếu trong chỉ thị của Đức Giêsu: rao giảng và trừ quỉ.
+ Kết luận
Khi đọc đoạn văn trên đây, Giáo Hội (và mỗi
ki-tô hữu) được mời gọi nhận ra câu truyện về ơn gọi của chính mình. Giáo Hội
(và mỗi ki-tô hữu) không được khép kín trên chính mình, theo một số tiêu chuẩn
xã hội học nào đó. Giáo Hội sẽ phải ra đi đến mọi phương trời vào mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhiệm vụ của người Kitô
hữu hôm nay cũng không khác nhiệm vụ của Nhóm Mười Hai xưa kia: loan báo Tin
Mừng và giảm thiểu ảnh hưởng của sự dữ. Nhưng sức riêng không giúp họ chu toàn được
sứ mạng này; họ cần phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu (“ở với Người”; x.
3,14).
2. Người Kitô hữu không được
chỉ giới hạn vào việc lắng nghe sứ điệp về Triều Đại Thiên Chúa, mà còn phải
nhận ra trong đời sống mình có quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động để đưa
lại sự giải thoát và niềm vui.
3. Làm chứng bằng lời nói là
một khía cạnh của sứ mạng tông đồ. Tuy nhiên, sứ mạng này sẽ khiếm
khuyết nếu việc làm chứng bằng lời nói không được phối hợp với việc làm chứng
bằng hành động, bằng chính đời sống mình.
4. Người Kitô hữu luôn nhớ
rằng mình là người được sai phái đi, nên phải lệ thuộc vào các chỉ thị của Chúa
mình và phải trả lời về cách thực hiện các mệnh lệnh của Người. Như thế, ra đi
loan báo Tin Mừng không phải là cơ hội để truyền đạt và áp đặt các tư tưởng của
riêng mình.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm