ĐỨC GIÊSU, CÁC TÔNG
ĐỒ VÀ DÂN CHÚNG
(Máccô 6,30-34 – CN
XVI TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Đức
Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một (Mc 6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật
việc các ông trở về báo cáo công việc đã làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng
Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma
quỷ, các ông phải chấp nhận định mệnh của Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác
giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào giữa đoạn văn về sai phái đi và trở
về báo cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong
đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc: Đức Giêsu là Thầy nhắc
nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45), đám đông kéo tới,
chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có giờ ăn uống đã được
nói đến ở 3,20.
Nếu
đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần mở cho biến
cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng (6,34-44).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia
thành hai phần:
1) Đức Giêsu và các Tông Đồ
(6,30-32);
2) Đức Giêsu và đám đông dân
chúng (6,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Các Tông Đồ tụ
họp quanh Đức Giêsu (30): Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng
về, Nhóm Mười Hai được nhận danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ
ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn
này với đoạn văn kể lại việc Đức Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là
trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng
tiếp nối công trình của Người, mà các ông tái xuất hiện.
- và kể lại … mọi
điều các ông đã làm … đã dạy: Họ báo cáo đúng
theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao giảng – trừ quỷ
và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã được minh hoạ
trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ của Nhóm Mười
Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của Người.
Đây
là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã giảng dạy” (edidaxan).
Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này hơn (kêryssein:
3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc thái phân biệt hai
từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14 và 21). Tuy nhiên,
không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn toàn tách biệt;
khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến việc giảng dạy
của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang nêu bật hoạt
động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động giảng dạy của
Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười Hai.
- Anh em hãy lánh riêng
ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý
giải thích việc ra đi đến nơi thanh vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với
năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai
và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy
nhiên, câu này cũng có những chi tiết đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết
được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc.
31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là một nét riêng của Mc (x.
7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho Nhóm Mười Hai được “ở với
Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.
Đàng
khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông đồ có cùng một nhịp
sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như Người. Các ông được mời
bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu nguyện, sau khi đã hoạt
động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn diễn tả qua dụ ngôn hạt
giống tự mọc một mình (4,26-29)?
- chạnh lòng thương (34):
Động từ splanchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm
đến lòng dạ (ta splanchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt
chiếu cố đến một ai đó (x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
- vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt: Câu này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc
đáng thương của dân Chúa khi thiếu vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16),
bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed
34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34 hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết, đã
xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi
trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các
lương thực nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng chính Thiên Chúa
sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong đồng cỏ mầu mỡ (c.
14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn dắt chúng (c. 23).
Xem Tv 22/23.
Nhiều
chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn đó: sự ân cần của Đức
Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám đông qui tụ lại, bữa
ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho hiểu Đức Giêsu
chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh lòng thương”,
bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.
- và Người bắt đầu dạy dỗ
họ nhiều điều: Điều đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ
lòng thương xót! Các bản văn Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức
Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng dạy thì không phải vì thương xót. Vả
lại công việc của người mục tử không phải là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn
chiên.
Thật
ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2; 10,1), tuy không cảm
thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc vẫn sử dụng
danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì điều
ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động giảng
dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức
Giêsu giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết
lập Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức
Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay Đức
Giêsu đến để dùng lời nói mà quy tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật
ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời Chúa với ân ban các
lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn
16,28; Nkm 9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc
hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt
Giáo Hội: hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong
đó việc giảng dạy và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)
Cần
phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan hệ với sự ân cần
Người tỏ ra với các môn đệ.
Trong
TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn luôn xảy
ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm. Song
song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai một
lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu
đã làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ. Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám
đông, thì theo TM II, dấu lạ này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có
điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch
của lương thực và về truyền thống với người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi
sáng cho các môn đệ đang ở riêng một nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về
các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ
đấy là một mạc khải được dành riêng cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một
người mù (8,22-26) được đặt giữa những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức
tin của Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu
biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)
Theo
Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng ngay khi Người
xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không tránh khỏi dân
chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy Người, khiến
Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13; 3,7-9.20; 5,21.24;
6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy dân chúng luôn luôn
tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng tế lèo lái trong
cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu xua đuổi họ, cho dù
đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi Người còn gọi họ lại
(7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông không phải là không có ý
nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám đông biểu lộ một
phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường hợp ở đây, khi
mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết luận
“Tin
Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể hiện giữa loài người
hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ các tông đồ. Xuyên qua
sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái của Người, chiếu cố đến
mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ ở thời kỳ
khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của Giáo Hội, trách
nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ loan báo Tin
Mừng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi khuyên các môn đệ đi
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất
nhân bản, Người đã tỏ ra là một vị Thầy quan tâm đến mọi phương diện thuộc đời
sống các môn đệ. Đấy là một tấm gương cho tất cả những ai có trách nhiệm
về những người khác.
2. Trong Cựu Ước,
lòng từ bi thương xót là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua thái độ của
Đức Giêsu, ta thấy được lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với loài người. Bất
cứ ai có vai trò “mục tử” (cha xứ, bề trên, cha mẹ…) đều được mời gọi bắt chước
Đức Giêsu về phương diện này.
3. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào
sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất vả mới mở mắt các ông ra được, thì chắc hẳn
không người môn đệ nào hôm nay muốn thực tập đời tông đồ mà lại miền chuẩn cho
mình khỏi phải ở với Đức Giêsu, nhìn ngắm Người, bước theo Người và cứ thường
xuyên bị Người ngăn cản trong những kế hoạch theo lô-gích loài người.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm