(Gioan
6,24-35 – CN XVIII TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Xem tại phần trình bày Ga 6,1-15.
Bài Diễn từ về Bánh
trường sinh là phân đoạn 6,22-59, có cấu trúc như sau, gồm sáu cuộc trao đổi
giữa Đức Giêsu và những người đối thoại:
a- cc. 22-27: Dẫn nhập:
Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
b- cc.
28-29: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
c- cc. 30-33: Bánh bởi
trời
c’- cc. 34-40: Bánh bởi
trời
b’- cc.
41-51: Cần có đức tin (như là “công việc” của con người và Thiên Chúa)
a’- cc. 52-59: Kết
luận: Caphácnaum, các yếu tố Thánh Thể
Như thế, c. 35, “Tôi là
bánh trường sinh” nằm tại trung tâm của bài diễn từ và của chương, tại đầu vấn
nạn hoặc lời trao đổi thứ tư giữa Đức Giêsu và các thính giả.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Vấn nạn thứ nhất: đi
tìm bánh (6,24-27);
2) Vấn nạn thứ hai: làm
việc Thiên Chúa muốn (6,28-29);
3) Vấn nạn thứ ba: hỏi
về dấu lạ Đức Giêsu làm (6,30-33);
4) Vấn nạn thứ tư: xin
bánh ban sự sống (6,34-35).
3.- Vài điểm chú giải
- Thật, tôi bảo thật các ông (26): Kiểu nói này, với từ amên lặp lại 2 lần (amên amên legô
hymin) là đặc điểm riêng của TM IV (25 lần. Xem chẳng hạn 1,51;
5,19.24.25; 6,26.32.47.53...). Amên do từ Hípri ’âmên có nghĩa là
“vững vàng, chắc chắn”. Kinh nguyện Kitô giáo dùng công thức amên này để
kết lời cầu, với ước mong là các lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện. Các
kinh sư Do Thái dùng từ amên để diễn tả một lời tuyên thệ, sự đồng ý hay
xác nhận, nhưng không bao giờ liên kết amên với “tôi bảo các ông”. Trong
các TMNL, Đức Giêsu nói: “Amen, tôi bảo các ông” (dùng 1 lần
“amen”). Kiểu nói đặc biệt của Đức Giêsu
có thể bao hàm ba khía cạnh: (1) Đức Giêsu bảo đảm tính xác thực của những lời
Người nói (x. Ga 8,24); (2) Đức Giêsu muốn đồng hóa mình với “Amen”,
nghĩa là với “sự thật”, với “chân lý” (x. Ga 14,6; Kh 3,14) (3)
Đức Giêsu nhấn mạnh đến những gì đã nói hay những gì sẽ nói để người nghe chú
ý; như thế amên mở đầu cho những mạc khải quan trọng.
- Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (27): Có những nhà chú
giải nghĩ rằng câu này nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ nghĩa đơn
giản và rõ ràng hơn là: Con Người từ trời đến và các dấu lạ Người làm là những
hành vi qua đó Thiên Chúa đảm bảo cho tính xác thực của sứ mạng của Người
(3,33) cũng như đảm bảo rằng loài người có thể nhờ Người mà đạt được sự sống
đời đời.
- chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc
Thiên Chúa muốn (28): Người Do Thái nghĩ là
họ có thể tự mình đạt được sự sống đời đời, với điều kiện là hoàn tất một số
việc buộc. Số nhiều của “những việc Thiên Chúa muốn” có ý nhắm đến các điều
khoản bó buộc trong nền luân lý của họ (Mt
19,16; 22,34-40).
- việc Thiên Chúa muốn … là tin vào Đấng Người
đã sai đến (29): Đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng căn bản nhất gồm tóm
mọi quy định của Lề Luật: tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến; trong các hành vi
Đức Giêsu làm, phải nhìn thấy các công việc của Thiên Chúa thời cánh chung. Tác
giả Ga đã sửa lại một chút một
công thức của Phaolô (Rm 3,28) và tập trung tất cả lối sống
Kitô hữu vào việc tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái.
- tin (29.30): Các TMNL và các Thư Phaolô
thường dùng danh từ “đức tin (pistis)”, TM Ga lại thường xuyên dùng động từ “[hành vi] tin” (pisteuô):
công thức “tin vào” (pisteuô eis) được dùng 36 lần trong TM IV (kể chung pisteuô là 98
lần), 3 lần trong các Thư Gioan, và
chỉ 8 lần trong phần còn lại của Tân Ước.
- Người đã cho họ ăn bánh bởi trời (31):
Man-na được ban hằng ngày trong sa mạc được nhiều kinh sư coi như là việc diệu
kỳ lớn lao nhất của thời Xuất Hành. Có bốn bản văn Cựu Ước có thể là nền tảng cho Ga
6,31: Xh 16,4; Xh 16,15; Nkm 9,15 và Tv 78 (77),24.
(a) Trong Xh
16,4, không có động từ “ban/cho” và chủ thể đang nói là Thiên Chúa. Đối tượng ở
số phức. Không chắc bản văn này đã ảnh hưởng lên Ga 6,31.
(b) Xh
16,15 cũng vậy: dạng ngữ pháp là dạng của các lời Môsê ngỏ với con cái
(c) Nkm
9,15 có dạng một lời ngỏ: con cái
(d) Bản văn gần nhất với Ga 6,31 là Tv 78 (77),24.
- bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống (33): Trong hy-ngữ,
“bánh” (artos) ở giống đực, nên có thể dịch câu này hai cách: “bánh
Thiên Chúa ban là sự gì (cái gì) từ trời xuống” (xem NTT); “bánh Thiên
Chúa ban là Đấng từ trời xuống”. Cách dịch thứ nhất thì xuôi tai hơn,
nhưng cách dịch thứ hai thì tốt hơn, bởi vì Đức Giêsu đang muốn đưa người ta
chuyển đi từ man-na và bánh sang bản thân Người.
- Tôi là (egô eimi, 35): TM IV nói đến công thức này nhiều lần. Trong tình trạng tuyệt đối,
các công thức “Tôi là” (Ga
8,24.28.58; 13,19) được trực tiếp cảm hứng từ các công thức mà Thiên Chúa của Cựu Ước đã dùng để giúp người ta biết
Người (Xh 3,14; Hs 1,9; …). Khi nói “Tôi là”, Đức Giêsu khẳng định Người là nội dung
mà chính Thiên Chúa đã mạc khải ra về chính Ngài cho dân Do Thái . Các khẳng
định “Tôi là” giới thiệu Đức Giêsu như là giá trị sống vĩnh viễn. Ở đây, Người
muốn nói rằng Người là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan
trọng. Người chính là bánh đích thật ban sự sống viên mãn.
Trong diễn từ về Bánh
ban sự sống ở Ga 6, có ba công thức
“Tôi là” (cc. 35.48-50.51). Cả ba câu đều có kèm theo một lời mời tin
vào Đức Giêsu, mời đến với Người hoặc đến ăn thứ bánh thiên giới này là chính
bản thân Người. Những câu này giống với các phần triển khai của sách Châm ngôn ch. 8–9 và sách Huấn ca ch. 24, trong đó sự Khôn Ngoan
thần linh tự giới thiệu mình và mời người ta lắng nghe mình, đến với mình, ăn
mình (x. Cn 8,32; Hc 24,18).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Khi thấy Đức Giêsu hóa
bánh ra nhiều, đám đông cho rằng Người “là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian”
(c. 14; x. Đnl 18,15; Ga 1,21). Họ muốn “tôn Người làm vua”,
nhưng Đức Giêsu “lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (c. 15).
Hôm sau, họ lại đi tìm
Người. Và xảy ra một cuộc đối thoại.
* Vấn nạn thứ nhất: đi tìm bánh (24-27)
Dường
như Đức Giêsu không trả lời đúng câu hỏi của người Do Thái. Trong thực tế, câu
trả lời của Người nhắm đến thái độ mà câu hỏi của họ đã tố giác. Họ đã thấy dấu
lạ nhiều lần (6,2; 2,23-25), nhưng họ đã không quan tâm và đã không hiểu các
dấu lạ ấy. Họ chỉ hoàn toàn quan tâm đến bánh, đến việc ăn no về vật chất thôi
(c. 12). Phép lạ đã không cung cấp cho họ ánh sáng về bản thân Đức Giêsu
(12,9). Bởi vì bánh (cũng như rượu ở
* Vấn nạn thứ hai: làm việc Thiên Chúa muốn
(28-29)
Người Do Thái hiểu sai
ý nghĩa của động từ “làm việc”. Họ lẫn lộn giữa các công việc của Thiên Chúa
với các công việc họ làm nhằm tôn vinh Thiên Chúa. Câu hỏi này cho thấy họ
không hiểu gì cả. Họ nghĩ rằng họ có thể đạt được sự sống đời đời bằng sức lực
riêng, miễn là họ chu toàn một số điều khoản Luật buộc. Tức khắc Đức Giêsu đưa
các điều khoản ấy ra, đây là đòi hỏi đơn giản nhất nhưng cũng triệt để nhất:
tin vào Đấng Thiên Chúa sai phái và nhìn thấy các hành vi Đức Giêsu làm là
những công trình Thiên Chúa thực hiện vào thời cánh chung. Công việc duy nhất
họ phải làm cũng là công việc duy nhất Đức Giêsu vẫn làm: chu toàn công việc
của Chúa Cha.
Bằng cách dùng thường
xuyên động từ “[hành vi] tin” thay vì danh từ “đức tin” (trừu tượng), tác giả Ga cho thấy rằng, thay vì đề cập đến đức
tin trừu tượng, ngài nghĩ đến việc dấn thân người Kitô hữu phải thực hiện để
trở thành môn đệ Đức Giêsu. Đây là một quyết định mang tất cả niềm tin
tưởng đăt nơi Đức Giêsu.
* Vấn nạn thứ ba: hỏi về dấu lạ Đức Giêsu làm
(30-33)
Người Do Thái hiểu là
Đức Giêsu đang tự đặt mình trước mặt họ như là vị Sứ giả của Thiên Chúa. Nhưng
vì cứ ham các bằng cớ nắm bắt được, họ hỏi tiếp: “Ông làm được dấu lạ nào cho
chúng tôi thấy để tin ông?” (c. 30). Ở đây, thay vì nói đến hành tin
tưởng bắt họ dấn thân trọn vẹn (pisteuô eis), họ lại đặt vấn đề về uy
tín của Đức Giêsu (pisteuô + tặng cách). Ít ra Người phải cho thấy Người
ngang bằng Môsê là người đã nuôi dưỡng dân Do Thái suốt 40 năm (Xh 16,35).
Yêu
cầu này không có câu trả lời, vì không thể có câu trả lời nào cả cho thứ yêu
cầu như thế. Không có một dấu lạ nào có thể chứng minh rằng Đức
Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Các dấu lạ bên ngoài có thể dẫn đưa người ta
đến tận ngưỡng cửa đức tin (Ga 15,24;
x. 10,25; 12,37t), nhưng tự chúng không đủ. Trước tiên, bởi vì nếu bị liên kết
với các lý do duy lý, đức tin sẽ không đi xa hơn lý trí; kế đó, bởi vì đức tin
sẽ chịu ảnh hưởng các ấn tượng (x. 4,48). TM
IV, với truyện Tôma ở ch. 20, sẽ cho thấy rằng những dấu chỉ ấy không cần
thiết cho hành vi tin (20,29).
Câu
“Không phải ông Môsê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu” (c. 32) có thể là một
phủ nhạn về Môsê (không phải là Môsê, mà là Thiên Chúa) hoặc về bánh bởi
trời (thứ bánh bởi trời ấy không phải là man-na). Trong thực tế, câu này là một
phủ nhận về bánh: những gì Môsê đã ban cho tổ tiên các ông thì đúng là từ
trời rơi xuống, nhưng không phải là bánh đích thực bởi trời. Bánh đích thực,
bánh hoàn hảo, bây giờ Chúa Cha đang ban tặng, còn man-na chỉ là một tiền vị
của thứ bánh ấy thôi.
Đức Giêsu là bánh của
Thiên Chúa, bởi vì Người không đến từ một trung gian nhân loại, nhưng đến trực
tiếp từ Thiên Chúa. Hình ảnh bị đẩy ra sau, nay tác giả nhấn mạnh trên các phẩm
chất của bánh này của Thiên Chúa: từ trời xuống, ban sự sống vĩnh cửu.
* Vấn nạn thứ tư: xin bánh ban sự sống (34-35)
Giữa vấn nạn thứ ba (cc. 30-33) và vấn
nạn thứ tư
(cc. 34-40), có một sự tiến triển. Các câu đầu nói đến bánh bởi trời do Thiên
Chúa hoặc Môsê ban cho. Người Do Thái liền xin Đức Giêsu một dấu lạ như dấu lạ
ông Môsê đã thực hiện trong sa mạc khi ban cho họ bánh bởi trời (có lẽ quy
chiếu về Tv 78,24). Nhưng Đức Giêsu
lại loan báo một thứ bánh từ trời xuống, là “bánh đích thực”, bây giờ được Chúa
Cha ban. Sang cc. 34-40, bản chất của bánh ấy được làm sáng tỏ.
Như chúng ta vẫn thấy,
người Do Thái lại hiểu lầm về ý nghĩa của những lời nói ấy của Đức Giêsu. Họ
chẳng quan tâm gì đến bản thân Con Người. Họ cứ tiếp tục mơ một thứ bánh
vật chất từ trời rơi xuống cho họ. Như bà Samari (4,15) và như họ đã làm trong
những hoàn cảnh tương tự, họ xin Đức Giêsu cứ ban cho họ đều đặn và liên tục,
thứ bánh không tốn tiền ấy. Phần Đức Giêsu, Người lại công bố rằng chính Người
mới là “bánh trường sinh”. Điều mà Người ban, thì ban một lần cho mãi
mãi. Người không ban một điều gì khác, mà là ban tặng chính mình. Người
là thứ bánh vĩnh viễn, bánh cánh chung, bánh duy nhất quan trọng. Người chính
là bánh đích thực ban sự sống viên mãn, trong khi man-na không giải thoát người
ta khỏi sự chết (6,49). Mọi người được mời gọi đến với Người, vì giống như sự
Khôn Ngoan trong sách Cn và Hc, Người có thể thỏa mãn mọi khát vọng
tôn giáo của họ.
+ Kết luận
Bữa ăn lạ lùng sẽ phải
được giải thích như là một dấu chỉ. Đấy là một sự kiện thực hữu,
Đức Giêsu đã thực sự cho một đám đông ăn no; nhưng biến cố này tự nó
không có ý nghĩa. Đức Giêsu không muốn chứng minh rằng người ta có thể nhận
được bánh từ nơi Người mà không cần phải mệt nhọc và được nhận ê hề; Người
không muốn thay thế các ông thợ làm bánh mì để rồi các ông này phải thất nghiệp
mà bị đói. Bữa ăn lạ lùng nhắm đến một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu
có thể ban bánh và cho ăn no nê theo nghĩa trần thế phải cho thấy rằng bản thân
Người chính là bánh ban sự sống và có thể ban sự sống vĩnh cửu, không bao giờ
tàn lụi. Ở bên Người, chúng ta không được tìm kiếm bánh trần thế; trái lại,
chúng ta phải nhìn nhận rằng Người có thể và muốn ban cho chúng ta một thứ
vô cùng lớn lao hơn. Chúng ta cần phải để ý đến điều này và đón nhận quà tặng
của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nếu không có bánh, chúng ta sẽ chết. Cơm
bánh có khả năng duy trì sự sống cho chúng ta nhưng đó là một khả năng
giới hạn. Khi nói “Tôi là bánh ban sự sống”, Đức Giêsu cho hiểu là tương quan
giữa bản thân Người với loài người cùng một kiểu như tương quan giữa cơm
bánh và chúng ta, nhưng sự sống Người ban là sự sống vĩnh cửu, chứ không chỉ là
sự sống trần gian giới hạn. Người mạnh hơn cái chết, Người muốn đưa chúng ta đi
sang bên kia cái chết. Nhưng chúng ta phải chạy đến với Người, phải tin vào
Người.
2. Tôi tin vào Đức Giêsu khi tôi tự liên kết
hoàn toàn với Người và để cho Người hoàn toàn quy định đời sống tôi. Đức tin có
thể là như một dây liên kết mong manh và yếu kém; còn nếu một dây liên kết quan
trọng, vững chắc và thiết yếu đối với
cuộc sống, thì nó được diễn tả ra bằng một tình bạn chân thật hoặc một
cuộc hôn nhân đích thực. Khi tin vào Đức Giêsu, dây liên kết ta có với
Người sẽ có sức mạnh và có khả năng ban sự sống tối đa.
3. Chúng ta ngại để cho Thiên Chúa đi vào trong
cuộc sống chúng ta và làm việc ở đó. Để biện minh cho việc chúng ta lùi lại
trước đòi hỏi của Người, chúng ta vận dụng một chiến thuật khác để “câu
giờ”, chúng ta đặt ra một điều kiện: “Ông đã làm dấu lạ nào… ? Ông đã
làm gì?” (c. 30). Chúng ta đã thấy hoạt động của Thiên Chúa trong đời sống
chúng ta, nhưng chúng ta vẫn tìm cách từ chối tin vào Người. Thiên Chúa lại chỉ
thích nói với con tim chúng ta bằng những dấu chỉ kín đáo hầu chúng ta vẫn còn
tự do mà từ khước tiếng gọi của Người. Thiên Chúa muốn được yêu mến bởi những
người con tự do, chứ không phải được tôn thờ bởi những tên nô lệ khiếp nhược.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm