TÔi là bánh
ban sỰ sỐng
(Gioan 6,41-51 – CN
XIX TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Cũng
như trong việc chữa lành người bất toại ở Ga 5, sang Ga 6, Đức
Giêsu lấy sáng kiến nuôi đám đông (6,4-13). Và đám đông nhìn nhận việc nhân
bánh ra lạ lùng là dấu chứng tỏ Đức Giêsu là vị ngôn sứ và vua của thời cánh
chung mà dân con
Chính
Bài diễn từ về Bánh ban sự sống có thể phân chia như sau:
1)
Chuyển tiếp vào Bài Diễn từ (6,22-24);
2)
Mở đầu Bài Diễn từ (6,25-34);
3)
Chính Bài Diễn từ (6,35-50.51-59);
4)
Phản ứng lại với Bài Diễn từ (6,60-71).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được
chia thành bốn phần:
1) Người Do Thái
xầm xì (6,41-42);
2) Đức Giêsu kêu
gọi tin vào Người (6,43-47);
3) Đức Giêsu mời
gọi đón nhận Người là bánh trường sinh (6,48-50);
4) Bánh trường
sinh chính là thịt Đức Giêsu (6,51).
3.- Vài điểm chú giải
-
Tôi là (42): Kiểu nói “Tôi là” trong TM IV
được liên kết với tên của Thiên Chúa (x. Xh 3,14). Trong tư tưởng
Sê-mít, tên của một người cho thấy tính cách của người ấy. Như thế, khi
đồng hóa chính mình với tên Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải bản tính của Thiên
Chúa và làm cho người ta biết Thiên Chúa. Những lời nói của Đức Giêsu thông ban
ơn cứu độ của Thiên Chúa, là nguồn mạch tối hậu ban sự sống và ánh sáng cho Dân
Người. Công thức “Tôi là” được sử dụng cách tuyệt đối trong 6,20; 8,24.28.58;
13,19; 18,5.6.8; đó là cách Đức Giêsu mạc khải về bản thân và uy quyền của
Người. Một cách thường xuyên hơn, công thức này được sử dụng phối hợp với một
ẩn dụ. Có 7 lần công thức “Tôi là” được dùng theo kiểu ẩn dụ để nói rõ rằng
Đức Giêsu là một món quà Thiên Chúa ban cho loài người để có sự sống
đích thực và ánh sáng, hoặc là ơn cứu độ được Thiên Chúa ban cho nhân loại
(6,35; 8,12; 10,7.9; 10,11; 11,25; 14,6; 15,1).
-
Ông này (42): “Cái ông này”, tính từ houtos
diễn tả sự khinh thường (6,52; 7,15; 3,16).
-
lôi kéo (44): Động từ helkyein với nghĩa
“kéo ra ngoài, rút ra, mang ra ngoài bằng sức mạnh”, thường được dùng để chỉ
việc di chuyển một khối nặng, như một chiếc thuyền, một cái
xe.
-
sách các ngôn sứ (45): Số phức này có lẽ là một cách
tổng-quát-hóa, vì ở đây chỉ có một câu trích Is 54,13.
-
thịt (51): Sarx đúng là từ ngữ dịch từ bơsar
(A-ram; bâsâr, Híp-ri). Nhưng từ ngữ này không chỉ có nghĩa là “thịt”
(cơ bắp…), mà cũng có thể có nghĩa là toàn thân thể và thậm chí tất cả con
người, với đặc điểm là có tương quan với những người chung quanh (x. 1,14).
Hy-ngữ có khả năng diễn tả tốt hơn các sắc thái này. Trong Do Thái giáo sau
này, người ta chọn dịch từ Híp-ri bâsâr-thân thể bằng từ sôma,
cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai từ sarx và sôma
như nhau. Nhưng đối với bí tích Thánh Thể, từ sôma đã trở thành từ cổ
điển, ngoại trừ trong một vài tác phẩm sau thời các Tông Đồ, do ảnh
hưởng Ga 6, các tác giả đã dùng từ sarx (chẳng hạn thánh Inhaxiô
và thánh Giustinô). Phần tác giả TM IV, tại sao ông vẫn giữ lại danh từ
“thịt” mặc dù đã có một từ ngữ riêng cho Bí tích Thánh Thể? Đó là vì “thịt” có
nghĩa rộng hơn là sôma-thân thể; vả lại trong TM IV, sôma
là cái thi hài, là thân thể chết. Làm thế nào một thi hài có thể đưa lại
sự sống? Ngược lại “thịt” vừa chỉ toàn thể con người vừa chỉ thân xác, nên một
danh từ hai nghĩa này rất lý tưởng để vừa gợi tới cái chết trên thập giá
vừa nhắc tới Bí tích Thánh Thể.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đến đây, bên trong đám đông, bắt đầu
xuất hiện những nhân vât đặc biệt. Nhóm đầu tiên là nhóm những người Do Thái.
Chẳng lẽ tất cả những người làm thành “đám đông” lại không phải là Do Thái cả
sao? Thế mà bên trong đám đông, tác giả Ga lại phân biệt ra một nhóm
riêng gọi là “người Do Thái”, và ngài coi đây là những người càm ràm (“xầm xì”)
và không tin.
* Người Do Thái xầm xì (41-42)
Phản ứng xầm xì của người Do Thái ở đây tương tự kiểu vấn nạn dân làng
Nadarét đã nêu ra cho Đức Giêsu trong TM Mc (6,1-6). Phản ứng này còn
khiến chúng ta nhớ lại quãng lịch sử xa hơn ngày trước: Trong sa mạc Sinai, con
cái Israel đã xầm xì để bày tỏ sự ngờ vực đối với Môsê: họ không tin vào sứ
mạng của ông là do Thiên Chúa trao và khả năng của ông là cung cấp bánh và nước
cho họ (Xh 16,2-3; 17,3). Vẫn đi theo chiều hướng của tổ tiên, người Do
Thái hôm nay xầm xì để nói lên sự hoài nghi của họ về tư cách và khả năng của
Đức Giêsu.
Họ nhắc lại hai khẳng định của Đức Giêsu (c. 41): Người là bánh và Người
từ trời xuống; đặc biệt họ nhấn mạnh tới điểm thứ hai. “Cái ông này” (giọng
khinh thường), ta biết rõ gốc gác, thế mà ông ta lại cho rằng mình có một sứ
mạng và một xuất xứ thần linh (x. 7,27)! Quả thật, theo niềm tin dân
gian Do Thái, Đấng Mêsia phải xuất hiện thình lình, mà không ai biết Người từ
đâu đến. Dựa trên niềm tin này, người Do Thái nghĩ rằng họ hoàn toàn có cơ sở
để bác bỏ các khẳng định của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu kêu gọi tin vào Người
(43-47)
Đức Giêsu liền can thiệp, nhưng Người không bao giờ trả lời câu hỏi về
nguồn gốc của Người trên bình diện nhân loại. Đứng tại quan điểm thần học,
Người cho biết “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi,
không lôi kéo người ấy” (c. 44). Người được Thiên Chúa sai đến (c. 44) và Người
đến từ Thiên Chúa (c. 46), do đó Người có thể cho rằng Người từ trời xuống. Nếu
người Do Thái thôi xầm xì, và để cho lòng họ mở ra với hoạt động của Thiên
Chúa, Thiên Chúa sẽ lôi kéo họ đến với Đức Giêsu. Đây chính là lúc lời ngôn sứ Isaia
(54,13) được thể hiện: “Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ”. Việc dạy dỗ
này có một phương diện bề ngoài, theo nghĩa là nó được cụ-thể-hóa bởi
chính Đức Giêsu đang đi lại giữa họ, và có một phương diện bên trong,
theo nghĩa là Thiên Chúa hành động trong tim họ. Điều này cũng ứng nghiệm lời
ngôn sứ Gr (31,33). Sự thôi thúc bên trong này do bởi Chúa Cha sẽ làm
cho họ có khả năng tin vào Người Con và như thế có sự sống đời đời.
* Đức Giêsu mời gọi đón nhận Người
là bánh trường sinh (48-50)
Các câu 48-50 là một đoạn theo cách hành văn đóng khung, vì các câu này
nhắc lại phần mở của Bài diễn từ: Câu 48 cùng với c. 35 làm thành một câu đóng
khung; cc. 49-50 nhắc lại các đề tài của cc. 31-33. Đám đông đã nêu ra cho Đức
Giêsu gương của các tổ tiên họ đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng Đức Giêsu cho
thấy rằng việc này đã không cứu được các tổ tiên họ khỏi chết. Kế đó, Người lại
nhắc lại ý câu trích Kinh Thánh ở c. 31 (“Người đã cho họ ăn bánh bởi
trời”), Người nói rằng bánh đến thật sự từ trời là một thứ bánh không để
cho người ta phải chết.
*
Bánh trường sinh chính là thịt Đức Giêsu (51)
Sau đó, Đức Giêsu chuyển sang một đề tài mới: bây giờ vấn đề không còn
phải là tin vào Người để được sống đời đời nữa, mà là ăn thịt và uống máu Người
(cc. 51.54). Lâu nay các tác giả vẫn coi đây là một gợi ý về Bí tích
Thánh Thể, nhưng ta có thể thấy nghĩa gần là Đức Giêsu nêu bật giá trị của cái
chết của Người trên thập giá. Bởi vì chính là trong tư cách Con Người mà Đức
Giêsu ban sự sống đời đời và Người lại trở thành Con Người đúng vào lúc cuối
đời, vào Giờ của Người. Chính vì nhắm nối dài gợi ý về cái chết trên thập giá,
tác giả dùng từ “thịt” (sarx), thay vì dùng từ “thân thể” (sôma).
Bởi vì ý nghĩa căn bản và cũng là từ nguồn của thịt mà Con Người sẽ ban không
phải là Bí tích Thánh Thể mà là ân ban “chính mình” trong cái chết trên thập
giá. Vậy tại Caphácnaum, khi nói đến “thịt để cho thế gian được sống”, là Đức
Giêsu muốn nói là “bản thân Người (chịu sát tế) để cho thế gian được sống”.
+ Kết luận
Điều mà không một thứ bánh nào có thể cung cấp và không một lời
hứa nào của con người có thể đạt tới, cho dù có xác tín đến đâu, Đức Giêsu có
thể ban tặng. Người mạnh hơn cái chết và Người muốn đưa chúng ta đi qua bên kia
cái chết. Phần chúng ta, điều này có nghĩa là chúng ta phải chạy đến với Người
để có sự sống đời đời, cũng như chúng ta vẫn chạy đến với bánh trần thế, để có
sự sống trần thế. Nhưng điều này cũng có nghĩa là các biên giới của cái chết đã
bị đánh đổ. Cũng như trong bánh, chúng ta tìm được phương thế để tránh thoát
cái chết và tiếp tục ở lại trong sự sống trần thế, thì cũng thế Đức Giêsu giúp
chúng ta thắng vượt sự chết và đi vào sự sống vĩnh cửu. Vì bánh giữ cho tôi
sống, tôi phải ăn bánh, chứ không chỉ nói suông về bánh; vì Đức Giêsu là bánh ban sự sống vĩnh cửu, tôi
phải đón nhận Người, tin vào Người và “ăn thịt” của Người, chứ không chỉ bằng
lòng với việc biết điều gì đó về Người hoặc nói về Người, dù sâu sắc.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Đức Giêsu đã thật sự cho đám đông được ăn no; nhưng biến cố này không có ý
nghĩa tự nó, nó quy về một thực tại khác. Sự kiện Đức Giêsu có thể ban
bánh và cho no thỏa về phương diện trần thế phải chứng minh rằng Người chính là
bánh ban sự sống đời đời. Ở bên Người, chúng ta không được tìm cơm bánh vật
chất; trái lại chúng ta phải nhận biết Người có thể và Người muốn ban cho chúng
ta điều vô cùng to lớn hơn. Điều mà chúng ta đang tìm kiếm nơi Đức Giêsu và
chúng ta phải nhận được từ nơi Người, có thể được tóm trong câu này: “Chính tôi
là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng
khát bao giờ” (Ga 6,35; x. 6,48.51).
2.
Đức Giêsu đã ra sức soi sáng chúng ta và quy hướng sự chú ý của chúng ta vào ân
ban cốt yếu của Người. Lương thực ban cho đám đông chỉ là một dấu chỉ.
Chúng ta coi thường dấu chỉ này, nếu chúng ta dừng lại với các mối quan tâm tức
thời và chờ đợi Người ban cho cơm bánh và sức khỏe; thật ra Người muốn ban
nhiều hơn thế nữa. Khi nói “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu đặt mình vào
trong mạc khải của Thiên Chúa mà Môsê đã được thông dự vào khi được Thiên Chúa
kêu gọi. Vào dịp đó, Thiên Chúa đã mạc khải tên của Ngài: “Ta là Đấng Ta là” (Xh
3,14). Thiên Chúa được xác định chủ yếu bằng sự kiện là Ngài hiện diện vì Dân
Ngai. Khi tự giới thiệu mình như thế, Đức Giêsu nói rằng Thiên Chúa đang hiện
diện nơi Người vì loài người và quan tâm đến chúng ta, đến đời sống chúng ta.
Đức Giêsu hiện thân là hình thái mới và vĩnh viễn của sự hiện diện đầy uy lực
và năng động của Thiên Chúa, không chỉ nhắm ban sự che chở và hướng dẫn, mà còn
nhắm có sự hiệp thông riêng tư về sự sống. Đức Giêsu không chỉ muốn ban bánh,
mà còn ban sự hiệp thông vĩnh cửu riêng tư về sự sống với Thiên Chúa.
3.
Chúng ta lệ thuộc cơm bánh, để đảm bảo được sự sống của chúng ta. Không có sức
lực đến từ cơm bánh, chúng ta không thể sống và làm được gì. Điều này không tùy
thuộc ý chí chúng ta; nó là như thế. Do bản tính tự nhiên, chúng ta phải nhờ
cơm bánh. Có cơm bánh, cũng có khả năng của cơm bánh là duy trì sự sống cho
chúng ta. Nhưng đây chỉ là một khả năng giới hạn, vì cuối cùng chúng ta
vẫn phải chết. Với công thức “Tôi là bánh hằng sống”, Đức Giêsu khẳng định rằng
tương quan giữa bản thân Người với loài người cũng cùng một kiểu như
tương quan giữa bánh và chúng ta. Đích thân Người, với tất cả những gì thuộc về
Người, có thể ban cho chúng ta những gì bánh đưa lại cho chúng ta, nhưng không
chỉ nhằm sự sống giới hạn, mà là sự sống vĩnh cửu vô biên.
4.
Dây liên kết duy nhất đích thật với Đức Kitô là tin vào Người. Tôi tin vào
Người khi tôi ký thác tất cả lòng trí tôi nơi Người, xác tín vào lời Người nói,
xây dựng mọi sự dựa trên Người, nhắm mọi sự theo Người, liên kết đời tôi vào
Người. Đức tin không phải là một xác tín về trí thức và một đoan
chắc rằng một lời khẳng định hay một sự kiện nào đó là thật; đức
tin là một thái độ chắc chắn và tin tưởng tỏ ra với Đức Giêsu, với ý
thức trọn vẹn rằng Người là ai và với sự nhận biết đầy đủ về chân tính của
Người. Đức tin là tương quan và dây liên kết người với người. Niềm tin vào Đức
Giêsu đưa lại sự sống đời đời (6,47).
Lm PX Vũ Phan Long, ofm