TRONG SẠCH VÀ Ô UẾ:
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI PHÀM
VÀ ĐIỀU RĂN CỦA
THIÊN CHÚA
(Máccô
7,1-8.14-15.21-23 – CN XXII TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn 7,1-23 là một phân đoạn chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng. Đoạn văn này đã được tác giả Mc đặt ngay trước đoạn
tường thuật hoạt động của Đức Giêsu bên đất Dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng
bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giêsu đã loại bỏ sự phân biệt
giữa “trong sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có
giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế
là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước
Thiên Chúa đã đến gần” (1,15).
2.- Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành hai phần:
1) Tranh luận giữa Đức Giêsu và các Pharisêu về trong sạch
và ô uế (7,1-8);
2) Giáo huấn của Đức Giêsu về trong sạch và ô uế
(7,14-15.21-23).
3.- Vài điểm chú giải
- tay còn ô uế, nghĩa là
chưa rửa (2): Giới Pharisêu và kinh sư trách các môn đệ của Đức Giêsu không
chịu tuân theo các tập tục truyền thống Do Thái về thanh tẩy. Vậy đây không
phải là quan điểm vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự lê-vít (Lv 11–15; x. thêm 19,23-25; 20,7; Đnl 14,3-21; 19; 5,1-4). Lời giải thích
của Mc (“nghĩa là chưa rửa”) chứng tỏ ngài viết cho một khối độc giả
không quen với những tập tục này. Các câu 3-4 là một giải thích trong ngoặc
đơn, cũng vì lý do này.
Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh
thiêng là hai khái niệm liên kết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh
huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng
đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này cũng trở
thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, ta thấy:
người ta không thể đụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được chạm đến
một tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã
làm cho bà ra ô uế; vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã
làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen ố về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt
được như thế không phải là một nhân đức
của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở vào đời
sống thông thường (R. de Vaux). Chính khái niệm về “ô uế” và “thánh thiêng”
cũng có vai trò trong việc phân biệt Do Thái với các “dân nước” (lương dân).
Đây không phải là những khái niệm lý thuyết rút từ Lề Luật, nhưng là những khái
niệm diễn tả một kinh nghiệm sống: bình diện của cái “trong sạch” chính là
những lãnh vực của sự sống (tượng trưng bằng phượng tự), còn lãnh vực của cái
“ô uế” là lãnh vực của sự chết (được tượng trưng bằng các nền phượng tự ngoại
quốc).
-
rửa tay cẩn thận (3): Từ “cẩn
thận” được diễn dịch từ từ ngữ Hy Lạp pygmê (“nắm tay”).
Zerw. & Grosv. ghi chú là: ý nghĩa không rõ; dịch sát là: “với nắm tay”
[Bản dịch Weymouth: “carefully, diligently” (cẩn thận, chu đáo); BJ: “jusqu’au
coude” (tới tận cùi chỏ); NAB: “carefully”; TOB: “soigneusement”; NJBC không
dịch nhưng ghi chú: có thể đây là một kiểu nói La-tinh dựa trên pugnus / pugillus là “handful; một nắm, nhúm, bốc, vốc, nghĩa là “với
mọt vốc”. Tác giả Mc đang mô tả khối nước được dùng trong nghi thức rửa
tay của người Do Thái]. Như vậy, “rửa cẩn thận” có nghĩa là rửa đúng quy cách,
theo đúng nghi thức.
- truyền thống của tiền nhân (3): Các “tiền nhân” là các vị tôn sư của
-
rửa chén bát, bình lọ và các
đồ đồng (4): Một vài nhà chú
giải cho rằng giọng văn của Mc ở đây có vẻ châm biếm. Nhiều thủ bản thêm “và
giường” vào danh mục (x. Lv 15); ở đây, tình cờ chi tiết này bị quên,
hay đã bị cố tình bỏ đi vì nghe không thuận.
-
đạo đức giả (6) : Nghĩa chữ của từ hypokritês
là “một diễn viên”, “người đeo một mặt nạ”.
- Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng: Câu trích Is 29,13 này được lấy từ Bản
LXX, chứ không từ bản Híp-ri, nhưng cũng có những khác biệt. Có thể Mc (hoặc truyền thống của ngài) đã sử dụng một bản dịch Hy Lạp khác.
-
Các ông gạt bỏ điều răn của
Thiên Chúa … (8): Lời Đức Giêsu
nói đây minh hoạ những gì được hàm chứa trong câu trích. Hẳn là người Pharisêu
và các kinh sư sẽ cực lực phản đối lời kết án này, bởi vì chính họ đang thấy là
họ có công trong công việc làm cho những giáo huấn không rõ ràng trong Lề Luật
trở thành thực tiễn và cụ thể!
- Không có gì từ bên ngoài … (15): Đức Giêsu đã nói theo kiểu một mâshâl, chứ không phải là một tuyên ngôn. Người không chọn
đứng về phía “bên trong” để chống lại phía “bên ngoài”, Người không trực diện
đối lập với luật của Cựu
Ước. Người mời con người đi ra khỏi
tình trạng tồi tệ của họ, không phải nhờ những nỗ lực trí tuệ, mà là bằng một
sự hoán cải tận căn. Bằng câu nói này, Đức Giêsu khẳng định con người có một tự
do phi thường. Như vậy, con người phải có ý thức về trách nhiệm của mình trước
mặt Thiên Chúa và loài người.
-
những ý định xấu: tà dâm,
trộm cắp… (22): Danh mục này kể
ra 12 tật xấu và tội lỗi. Trong phần Tân
Ước còn lại, cũng có những danh mục
như thế (x. Gl 5,19-21; Rm 1,29-31; 1 Pr 4,3). Trong danh
mục Mc, có những từ ngữ tương tự với các danh mục Phaolô. “Thể văn danh mục” là thể văn quen thuộc trong thế giới hy-la và cũng
có xuất hiện trong thế giới Do Thái giáo (x. 1 QS 4,9-11).
- Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong … (23): Câu này tóm tắt sứ điệp của phần thứ hai.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Tranh luận giữa Đức
Giêsu và các Pharisêu về trong sạch và ô uế (1-8)
Vấn
đề hôm nay không còn là: điều gì làm cho chúng ta nên trong sạch hoặc ra ô uế,
mà là: Chúng ta phải đánh giá lối sống của chúng ta dựa trên điều gì? Điều gì
có một trọng lượng quyết định cho tương quan của chúng ta với Thiên
Chúa?
Đức
Giêsu đặt điều răn của Thiên Chúa ở ngay trung tâm (c. 8). Tất cả lối cư xử của
chúng ta đều được quy định bởi các điều răn: tất cả những gì chống lại các điều
răn hoặc ngăn cản thực thi các điều răn đều là lời nói của loài người.
* Giáo huấn của Đức
Giêsu về trong sạch và ô uế (14-15.21-23)
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định rằng các hành vi
gian tà phát xuất từ trái tim gian tà. Do đó, mối bận tâm đầu tiên của con
người là có được một trái tim trong sạch. Trái tim trong sạch làm cho con người
sẵn sàng tức khắc đến gặp Thiên Chúa và sống bền vững trong tình hiệp thông với
Ngài. Khi kể ra những ý hướng xấu xa có thể phát xuất từ trái tim con người
(7,21t), Đức Giêsu đã đan cử vài ví dụ để cho thấy trái tim phải được giải
thoát khỏi điều gì để nên trong sạch, tức là để sẵn sàng thấy Thiên Chúa (x. Mt
5,8). Các điều được kể ra (tà dâm, trộm cắp, giết người) là những điều bị cấm
theo Mười Điều Răn, cùng với một số thái độ xấu phát sinh từ các tội đó
(tham lam, ganh tị, xảo trá). Như thế, giáo huấn về trong sạch và ô uế có thể
nói là một bài
bình giải Mười Điều Răn. Những thiếu sót được Đức Giêsu nhắc tới có thể giải
thích như sau: sự phỉ báng là điều ngược lại với việc ca ngợi và thờ phượng
Thiên Chúa. Còn trong thái độ kiêu ngạo, con người nghĩ mình không cần Thiên
Chúa, mình có thể làm và sắp xếp mọi sự. Sự ngông cuồng (rồ dại) đây là không
sẵn sàng nhận biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và toàn năng.
+ Kết luận
Ngày hôm nay, có khi còn hơn bao giờ hết, các Kitô
hữu cũng đang bị cám dỗ bỏ rơi lệnh truyền của Thiên Chúa mà chọn truyền thống
của loài người, bị cám dỗ tôn thờ Thiên Chúa chỉ bằng môi miệng, còn lòng trí
thì ở xa Ngài. Do đó, lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải vẫn còn rất hợp thời. Trái
tim con người cần được thanh thoát với mọi sự, để có thể đầy tràn cảm thức về Thiên
Chúa, để có thể nhìn nhận với lòng biết ơn sự lệ thuộc của mình vào Ngài. Cần phải tức khắc, ngay hôm nay, ngay tại vị
trí này, lắng nghe lại các lề luật của Thiên Chúa và đưa ra thực hành.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Hôm nay, chúng ta cũng có thể bị Đức Giêsu trách: chúng ta tự đặt ra cho mình
những luật lệ loài người, những luật lệ được tính ích kỷ tạo ra hoặc những luật
lệ chúng ta áp đặt cho mình từ bên ngoài. Chúng ta thường để mình đi theo những
gì được coi là đáng chuộng, là cần thiết, là tân thời, là hiện đại. Thế giới hiện
đại với chủ trương duy vật và khai thác xu hướng tiêu thụ có thể khiến chúng ta
lạc xa đường lối của Thiên Chúa, là đường lối duy nhất bảo đảm cho chúng ta
được sống muôn đời.
2.
Đối với chúng ta, điều quan trọng là ở trong tương quan đúng đắn với Thiên Chúa:
sự trong sạch đích thực hệ tại điều này. Nẻo đường duy nhất giúp ta đạt tới đó
là sống không phải theo những quy tắc của loài người, nhưng theo ý muốn của
Thiên Chúa. Và như thế có nghĩa là giữ điều răn bên ngoài mà thôi thì không đủ;
chính trái tim con người phải quy hướng về thánh ý Thiên Chúa.
3.
Cũng nên ý thức về tính đòi hỏi, bó buộc, của các điều răn của Thiên Chúa, vì
các điều răn không bảo: Nếu ngươi muốn, ngươi có thể làm điều này điều nọ,
nhưng bảo: Ngươi phải làm, ngươi không được làm. Chúng ta nghe Đức Giêsu nhắc
lại các điều răn của Thiên Chúa, chúng ta đọc các điều răn ấy ra trên môi
miệng, nhưng chúng ta có đưa các điều ấy đi vào trái tim chúng ta chăng?
4.
Nếu chúng ta đầy lòng biết ơn Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn tha thiết ca ngợi Ngài,
và cũng biết dành chỗ cho người anh chị em cũng như biết đối xử với họ với lòng
yêu mến. Chúng ta đi lễ, chúng ta chúc bình an cho nhau, chúng ta nhận Mình
thánh Chúa Kitô làm lương thực, chúng tat ham dự biết bao cuộc cử hành, thế
nhưng khi gặp trên đường những người mà chúng ta đã ngồi bên cạnh, chúng ta đã
bắt tay, có khi đã chia sẻ một chuyến hành hương, chúng ta giả bộ không quen
biết họ! Vì vội chạy theo công việc làm ăn của thế giới tiêu thụ? Vì những con
người ấy có thể làm nặng lòng chúng ta với những vấn đề của họ, nên cũng là có
thể làm cho chúng ta mất những khoản lợi nhuận nào đó mà chúng ta đang theo
đuổi? Thế thì chúng ta đặt Luật Thiên Chúa ở chỗ nào trong đời sống chúng ta?
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm