ĐỨC GIÊSU GIÁO HUẤN CÁC MÔN ĐỆ
(Mc 9,38-48 – CN XXVI TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng
hợp những chất liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề ngoài nơi việc
thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số nhiều, Đức
Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một câu
khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn đệ
(hymas, “anh em”). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn
là nối với cc. 38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết
nhằm giải quyết một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung
và cấu trúc sê-mít: c. 39 là một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c.
10 có giọng văn một cách ngôn. Dường như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt
10,42, ở dạng cổ hơn: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù
chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn nói về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã
được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các môn đệ”.
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những câu nói thuộc
các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé mọn của cc.
37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp
nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ
về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc nối”. Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc.
48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa” ở c. 49; tại đây “(ướp bằng) muối” đưa tới “muối” ở c. 50.
Nhưng trước đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho cc. 42-48 được thống nhất. Và
thuật ngữ “vì danh” móc nối cc. 37 (“vì danh Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì
danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ
là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra “một em nhỏ như
em này” ở c. 37 móc nối với “một trong những kẻ bé mọn đang tin đây” ở c. 42
(cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được liên
kết với nhau bằng những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một đơn vị văn chương,
và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ
ý khi đặt nó vào một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức
Giêsu và Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra “ở
nhà” (c. 33), một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây,
ngôi nhà được xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác,
mỗi khi Mc cần có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn
Đức Giêsu ban riêng cho các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10).
Trong cuộc trò chuyện, Đức Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng
đoàn khi các môn đệ còn tìm cho được ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan
báo Thương Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó,
mỗi lời đều có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu
của các môn đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng
cộng đồng sinh mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần
hai, vì các môn đệ còn quan tâm đến việc “trên trước”, Đức Giêsu dạy cho họ
biết đâu là đường lối của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có
thể chia thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc.
38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc.
42-48).
3.- Vài điểm chú
giải
-
Người lấy danh thầy mà trừ quỷ...
không theo chúng ta (38-40): Trong Cựu
Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là câu truyện Enđa và Mêđa
không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18;
19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc,
người trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc
1,24; 5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của
Người dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể
ngay sau đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để
phê bình những khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một
câu tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39
thành dạng châm ngôn.
Công thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là “vì người ấy không theo Thầy” khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực thể khép kín và có
thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của cộng đoàn.
-
Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết lời khẳng định này với c. 37: Hai
câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ ngữ
thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng đã
áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ đến các
em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang người môn đệ được mời trở nên
bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”,
nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc 9,42; Mt
18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là
phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu được nói
trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu kia (c.
37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga
13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người
môn đệ được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá
trị đến thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt
25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức rằng
họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức Giêsu
tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.
-
Làm cớ cho những kẻ bé mọn
đang tin phải sa ngã (42): “Những kẻ bé
mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng suốt hơn những người
khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng có thể trở thành cớ
khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm
14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm giá
của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm cớ cho… sa ngã (43-48): Phân đoạn
này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay … nếu chân … nếu mắt…”; x. cc. 43.45.47):
nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh
được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm
hiểu xem những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ
những chi thể này đâu hẳn là loại trừ
được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu
có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. Đức Giêsu chỉ
muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của
“sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con
người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;…).
“Sự
sống” thì đối lại với “hoả ngục”, được coi như nơi có những khổ hình dành cho
những kẻ tội lỗi bị loại khỏi “sự sống”. Câu trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng
ta về với bản văn Is 66,22-24 trong
đó vị ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới,
trong khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên
Chúa đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc “con cái Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê
ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần
các cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân
Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc)
đã lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7;
32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17;
lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu
tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa
kêu gọi hoán cải. Viễn tượng của Mc
9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào những bản văn này
mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ trợ sự chọn lựa con
đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14
so sánh với cc. 24-27).
Ghi chú : C.S. Mann giữ lại
một gợi ý thú vị của J.R. Harris: tác giả
TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative (đối-cách)
(
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu.
Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ
khác về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa
chữa. Các môn đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe
khoang về những đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức
Giêsu đánh giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một
nhóm khép kín để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết
phục vụ bất cứ ai, trong âm thầm, khiêm tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong
khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn
sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những
hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một
việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự hiệp thông giữa các thành viên.
Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê quyền trên trước, bởi việc tìm
kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa ngã, bởi thái độ khinh bỉ những
người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là duy trì sự bình an có nghĩa là
góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức Giêsu luôn luôn có
thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã
trình bày các lời này như những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo
đường đã từng đưa Đức Kitô đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn
này nhắm tới lý tưởng một cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau
(c. 50b) bởi vì sẵn sàng phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những
người ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc
phục vụ ít lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm
giác mạnh, nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly
nước cho người đang khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ
làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ
hay một lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích
lệ cho những người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế
gian khinh bỉ. Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng
kẻo lối ăn nói, cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa
vào đức tin phải mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không
phù hợp với người môn đệ của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải
phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế
cô thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó,
vì kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế
giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời
Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở
ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức
năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu
chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái
tim con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã
được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá
nhân và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần
đưa tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần
được liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được
loan báo Tin Mừng.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm