ĐỨC GIÊSU CHỮA LÀNH
NGƯỜI MÙ Ở GIÊRIKHÔ
(Máccô 10,46-52 – CN
XXX TN - B)
1.- Ngữ cảnh
Mc 8,22-26 kể truyện
một người mù được dẫn đến gặp Đức Giêsu, được Người chữa lành tiệm tiến, và
được yêu cầu giữ kín việc này; trong 10,45-52, Báctimê tự mình tích cực tìm Đức
Giêsu, được chữa lành ngay và trở thành môn đệ trên đường. Truyện thứ hai này,
cùng với câu truyện thứ nhất, đóng khung một đơn vị văn chương, nhưng cũng cho
thấy một sự tiến bộ trong đức tin. Truyện này có thể được coi như một truyện về
chữa lành hoặc một truyện về ơn gọi. Truyện này còn là một lời khuyến khích các
môn đệ đang đi theo Đức Giêsu mà không hiểu gì hết, lòng trĩu nặng kinh hoàng.
Hai
đoạn 8,22-26 và 10,45-52 là những bài tường thuật có vai trò chuyển mạch. Hai
đoạn này đưa độc giả đến một lời tuyên xưng công khai vào tư cách Mêsia của Đức
Giêsu: đức tin vào tư cách Mêsia giả thiết có biến cố Khổ Nạn. Trong viễn tượng
đối thần này, việc Đức Giêsu mở mắt có giá trị một dấu chỉ.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Hoàn cảnh: nơi chốn và các nhân vật (10,46);
2)
Phản ứng của anh mù khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (10,47-50);
3)
Đỉnh cao của bài: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (10,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- con đường (hê
hodos) (46): Chúng ta đang ở trong phân đoạn trọng tâm Trên
đường (x. Bố cục). Mc 10,32 ghi:
“Đức Giêsu và các môn đệ đang trên đường lên Giêrusalem. Người dẫn đầu các ông.
Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”. Đề tài này với tất cả
những gì liên hệ đến (tiến bước, dừng chân…) càng nổi bật trong 10,46-52: họ
(các môn đệ, đám đông và Đức Giêsu) đến Giêrikhô. Nhưng rồi Giêrikhô
cũng chỉ là một chặng trên “con đường” (“Khi Đức Giêsu … ra khỏi Giêrikhô”).
- môn đệ:
Xem ghi chú ở 2,18. Các môn đệ (mathêtai) đi theo Đức Giêsu được phân
biệt với đám đông tổng quát hơn (8,34; 9,14). Khi ghi nhận những lần tác giả sử
dụng từ “đám đông” (ochlos), chúng ta có thể khẳng định rằng, cũng như
các tác giả Tin Mừng khác, Mc
ghi nhận sự hiện diện thường xuyên của đám đông. Trong một vài đoạn,
ngài còn ghi là đám đông đi theo Người (3,20; 5,24; 8,2; x. plêthos ở
3,7 và polloi ở 2,15). Tuy nhiên, trong phân đoạn 8,27–10,52, hiếm khi
Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông. Trước 10,46, đám đông xuất hiện ở 9,14 và 10,1
(lần duy nhất ochloi ở số nhiều). Trong chuyến đi về Giêrusalem, Đức
Giêsu săn sóc đặc biệt các môn đệ. Thông thường, khi cứu xét ngữ cảnh, ta có
thể giả thiết là các đám đông là những người phát xuất từ vùng Đức Giêsu đi
ngang qua (10,1). Trong trường hợp
10,46, vì đã gần lễ Vượt Qua, ta có thể nghĩ đến những người hành hương đang
cùng đi với nhau tiến về thành thánh. Dù sao, Mc đã không quan tâm ghi
chú lý do vì sao đám đông ra khỏi Giêrikhô với
Đức Giêsu và các môn đệ Người.
- Báctimê: Báctimê là
phiên âm cụm từ A-ram bar timay, có nghĩa là “con ông Timê”.
- một người hành khất
mù, đang ngồi ở vệ đường: So với hành động của anh mù được kể ở
c. 52 (“đi theo”), câu này cho thấy vị trí đầu tiên của Báctimê hoàn toàn ngược
lại: “đang ngồi ở vệ đường” (para tên hodon). Đây là một tư thế cố định được coi như vĩnh viễn (thì vị
hoàn của động từ ekathêto). Đã thế, anh lại là người hành khất (prosaitês)
và bị mù. Tư cách hành khất diễn tả sự cố định, còn sự mù loà diễn tả sự
xa cách. “Bên vệ đường” có nghĩa là “ở bên ngoài đường”. Như vậy,
Báctimê ở trong thế bị loại trừ, cố định, xa cách người khác.
- Vừa nghe nói là Đức
Giêsu Nadarét, anh ta bắt đầu kêu lên (47): Đám đông can
thiệp nhiều lần. Lần đầu tiên, họ cho biết đó là “Đức Giêsu Nadarét” (c. 47).
Báctimê nhận thông tin này bằng thính giác (“đã nghe”): vì mù loà nên xa cách.
Nhưng có sự gần gũi: Giêsu người Nadarét là một con người; và hình như anh cũng
đã được thông tin về Người rồi. Tuy nhiên, sự gần gũi này cũng chưa giúp gì cho
anh. Anh kêu lên (vì xa cách): “Lạy Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!”.
Đáng ngạc nhiên là đám đông chỉ giới thiệu Đức Giêsu như một con người
(“người Nadarét”), mà anh này lại kêu cầu Người bằng một danh hiệu của Đấng
Mêsia (“con vua Đavít”). Dù sao, truyền
thống Do-thái chờ đợi Đấng Mêsia nhà Đavít đến giải phóng dân Ít-ra-en
và can thiệp để cứu độ, chứ không chờ Người chữa bệnh. Do đó, nhiều nhà chú
giải cho rằng Mc đã đặt vào miệng anh mù một lời cầu khẩn của Ki-tô
giáo. Đức Giêsu còn ở xa anh, vừa về không gian vừa do tư cách, nên anh phải
kêu để mong gặp Người. Lời kêu này đã giúp anh vượt qua khoảng cách đó để gặp
được Đức Giêsu.
- nhiều người quát nạt…
anh càng kêu lớn (48): Bây giờ, đám đông đã trở thành một trở ngại thật
đáng kể; nhiều người muốn bắt anh im đi. Trong các Tin Mừng, sáng kiến đi đến với Đức Giêsu không bao giờ phát xuất từ
dân chúng hay các môn đệ. Ở đây, chính sự ngăn cản của họ trở thành một thử
thách cho đức tin của anh, nhưng anh càng kêu to hơn. Danh Giêsu đã biến khỏi
công thức khẩn cầu, chỉ còn lại danh hiệu “con vua Đavít”.
- Đức Giêsu đứng lại và
nói: “Gọi anh ta lại đây!” (49): Người cắt ngang cuộc tiến bước. Khi làm
như thế, Người tách khỏi những kẻ đang ở với Người trên cùng một con đường,
Người phá vỡ một sức năng động mà Người đã phát động và lôi kéo. Lời Người nói
chứng tỏ giữa Người và anh mù, có một khoảng cách, và đám đông đang ở tại vị
trí này. Hành vi cắt ngang chuyến đi của Đức Giêsu tạo ra một hậu quả bất ngờ:
người mù vất áo choàng, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu, y như thể anh không
bị mù.
- anh mù: Đáng lưu ý
là Báctimê được gọi là “anh mù” (ho typhlos :cc. 49 và 51) sau khi Đức
Giêsu can thiệp. Nếu tác giả Mc chỉ gọi anh là “anh mù”, phải chăng ngài muốn nói rằng anh không
“hành khất” nữa?
- vất áo choàng: Tấm
áo choàng (himation: “áo”; “áo choàng”) có thể là y phục nói chung
(2,21; 5,28-30; 9,3; 15,20.24), nhưng ở đây có thể là tấm vải dùng như áo
choàng (5,27; 6,56; 11,7.8; 3,16) mà một người nghèo có thể dùng làm mền
đắp (Xh 22,25-26; Đnl 24,13), còn anh mù có thể trải ra
trước mặt mà nhận các món bố thí (những người hành khất Đông phương thường làm
như thế). Hành vi “vất (apobalôn) áo” có thể là cách diễn tả một sự hứng
khởi tột độ; nhưng dựa theo ý nghĩa của động từ ấy, có thể nói hầu chắc là anh
mù làm một hành vi từ bỏ dứt khoát. Ý nghĩa chính của động từ này là “vất đi,
quẳng ra sau (với sức mạnh)” và “bỏ lại bằng cách quăng ra” (Đnl 26,5 LXX) hoặc “đánh mất” (Is 1,30 LXX; Dt 10,35)[1]. Anh mù đã làm một động
tác dứt khoát, nhằm bỏ cái áo đi. Hành vi này chứng tỏ một sự liều lĩnh
của anh mù, nhưng cũng cho thấy anh hết sức tin tưởng vào sự trợ giúp của Đức
Giêsu và không muốn để cho ngay cả một vật cần thiết cho cuộc sống gây
cản trở cho mình. Cũng có thể coi động tác ấy có ý nghĩa biểu tượng là từ bỏ
chính mình (8,34-35), cắt đứt với quá khứ (1,18.20; 10,28).
- đứng phắt dậy (50):
Động từ anapêdaô là một hapax legomenon (từ dùng một lần) trong
Tân Ước, và ngày cả trong LXX cũng không được dùng thường xuyên
(7 lần). Từ này mô tả động tác “nhảy lên” theo cách cương quyết và bất ngờ (Tb 6,2) thường từ thế ngồi (1 Sm 20,34; Tb 2,4; 7,6; Et 5,1e) và
vì sự phấn khích (Et 5,1e: “lo âu lao
mình xuống”, agôniasas anepêdêsen). Trong những đoạn khác, Mc
diễn tả hành vi “trỗi dậy” bằng động từ egeirô quen thuộc hơn (2,12;
4,27; 13,8.22; 14,27). Theo lời mời egeire (“Hãy đứng dậy!”) của Đức
Giêsu ở 2,11 và 5,41, phản ứng đáp lại được mô tả cũng bằng động từ egeirô hoặc
anistêmi (5,42; 9,27). Nếu chúng ta nhớ sự tương ứng của egeirô-anistêmi
ở 5,41-42 và nhớ rằng ở 2,14, anastas mô tả sự đoạn tuyệt với cuộc
sống đã qua nhằm đi theo Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là, trong một ngữ cảnh
nói về việc kêu gọi, động từ anapêdaô diễn tả mạnh mẽ hơn một sự
sẵn sàng đáp lại lời mời gọi.
- đến: Đọng từ này mở
đầu bài tường thuật dành cho đám đông (c. 46: “Đức Giêsu và các môn đệ đến”),
nay được dành riêng cho anh: êlthen, ở thì quá khứ aorist, diễn
tả một hành vi duy nhất, quyết liệt.
- Anh muốn tôi làm gì
cho anh? (51): Đức Giêsu lưu tâm đến cá nhân anh mù.
Người đã cho gọi anh đến như cho vào một cuộc tiếp kiến; bây giờ Người
hỏi về điều anh muốn khiến ta nhớ lại 10,36: Đức Giêsu xử sự như Đấng có vương
quyền.
- Thưa Thầy:
Trong bản văn Hy-lạp, ta đọc là Rabbouni; đây là từ A-ram đã không được dịch
ra hy-ngữ, tăng cường từ Rabbi (“đức ông”, “ngài”).
- Anh hãy đi:
Đức Giêsu đã ban cho anh được thấy, như là một dấu chỉ của đức tin (“Lòng tin
của anh đã cứu anh”).
- anh đi theo Người trên con đường (52): Động từ êkolouthei
ở thì vị hoàn hàm ý một sự tiếp diễn: tiếp diễn trong chuyển động. Bởi
vì đây là việc bước đi “trên đường”, nhưng cũng là trong sự gần gũi, bởi
vì người ta bước theo sau một ai đó. Ý tưởng cốt lõi ở đây là sự hiện
diện vĩnh viễn “trên đường”. Anh trở thành môn đệ (“bước theo”).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh: nơi chốn
và các nhân vật (46)
Trong
chuyến đi lên Giêrusalem, Đức Giêsu và nhóm các môn đệ đến Giêrikhô, thành phố
cây chà là, cách Giêrusalem 23 cs về phía đông bắc, nằm ở 250m dưới măt biển, tại
một ốc đảo trong vùng trũng bên sông Giođan. Giêrikhô Tân Ước ở
về phía tây nam của “Giêrikhô của vua Hêrôđê”, nơi vị vua này đã xây một hoàng
cung rộng lớn. Khác với TM Lc (18,35–19,10), ở đây Đức Giêsu và
đoàn người đã không dừng lại Giêrikhô; cả đoàn đang đi ra khỏi thành thì gặp
anh hành khất mù Báctimê. Vị trí của hai bên là hai vị trí không thể gặp nhau:
Đức Giêsu và các môn đệ cùng đám đông thì đang di chuyển trên đường; anh
mù thì đang ngồi ở vệ đường.
* Phản ứng của anh mù
khi nghe biết Đức Giêsu đang đi qua (47-50)
Đáng
ngạc nhiên là đức tin của anh mù “ngồi ở vệ đường”, tức lâu nay không “đi theo”
Đức Giêsu, lại có phần sâu sắc (“Con vua Đavít”) hơn đức tin của đám đông dân
chúng (“Giêsu người Nadarét”). Anh cứ kêu to hướng về Đức Giêsu, bởi vì anh
muốn gặp Đức Giêsu mà anh lại không biết hướng. Đã thế đám đông lại trở thành
trở ngại cho đức tin của anh: họ quát nạt bắt anh im đi. Nhưng anh càng kêu to
hơn. Và Đức Giêsu đã dừng lại, truyền gọi anh lại. Đám đông thấy Đức Giêsu
chiếu cố đến anh, liền “đổi giọng”. Đến đây xảy ra sự cắt đứt cuộc hành
trình, Đức Giêsu đứng lại (c. 49): chính thái độ này đã làm thay đổi thái độ
của đám đông và đưa lại cho anh mù sự di động và sự gần gũi. Lối
xử sự của Đức Giêsu (đứng lại, truyền) đã làm cho hai bên có sự gặp nhau: anh
ta có hướng đi tới. Sự việc anh vất áo choàng có nghĩa là đã chấm dứt sự cố
định, để đạt sự di động. Hành vi “đến” (c. 50) đưa anh mù di chuyển
mà gặp Đức Giêsu, và đưa anh vào “con đường” Người đang đi. “Đức Giêsu” và “con
đường” là một; nói cách khác, sự gần gũi và di động phối hợp với
nhau: con đường đã mở ra cho anh mù.
* Đỉnh cao của bài
tường thuật: anh mù được chữa lành và trở thành môn đệ (51-52).
Cái
nhìn cho phép gần gũi dù ở xa, và bảo đảm cho có sự an toàn trong khi di động.
Từ đó, ta mới hiểu tình trạng mù loà thật sự là tình trạng của đám đông và các
môn đệ, một đám đông đang đi đường với Đức Giêsu: họ ở gần mà thật ra họ ở xa,
vì họ chỉ có thể thấy đây là “Giêsu Nadarét”. Nay đã được “thấy” bằng lòng tin,
Báctimê phải di động, phải theo Đức Giêsu trên đường. Công thức này thường được
Mc (và Mt) sử dụng trong khung cảnh một sứ vụ do Đức Giêsu giao
phó cho người môn đệ (Mc 1,44; 5,19;
10,21; 14,13).
+ Kết luận
“Sự
mù lòa” tượng trưng sự xa cách dù gần gũi; “sự thấy được” tượng trưng sự gần
gũi dù xa cách. Toàn bài xoay quanh những khái niệm này.
Trong
bài nổi lên một số nghịch lý: người mù lại là người thấy rõ hơn mầu nhiệm của
Đức Giêsu, người ngồi bên vệ đường lại có thể đến gần Đức Giêsu hơn những kẻ đi
theo Người lâu nay. Tất cả là do đức tin của người ấy và sự chiếu cố của Đức
Giêsu.
Sự
gần gũi (bằng lòng tin) phải kéo dài; muốn thế phải di động (“anh đi theo
Người trên con đường Người đi”, ở thì vị
hoàn). Đức Giêsu đã cắt đứt hành trình để kéo anh đi theo; anh cũng phải cắt
đứt tình trạng bế tắc để đi theo Người. Đấy chính là kinh nghiệm về đời tín
hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta có thể suy nghĩ
về thái độ của đám đông đi theo Đức Giêsu (trong đó có các môn đệ). Họ đã “đi
theo” Người lâu nay, mà họ chỉ có thể giới thiệu về Người rất sơ sài: “Giêsu
người Nadarét”. Vì thiếu lòng tin, họ đã không thể giới thiệu sâu sắc hơn về
Người. Điều đó đã được tác giả Mc diễn tả bằng một câu thê lương: “Đức
Giêsu dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi”
(10,32).
2. Trong đời sống đức tin,
đôi khi phải dám “đi ngược giòng”. Như anh mù, dù bị người ta quát nạt bắt im,
anh vẫn cứ kêu lên Đức Giêsu, vì anh xác tín chỉ Người mới có thể mở cho đời
anh một hướng mới. Chúng ta cũng được mời gọi gắn bó mật thiết với
Người, vì chỉ Người mới là Đấng duy nhất dẫn chúng ta đi đúng đường.
3. Đức Giêsu đã cho các môn
đệ biết mục tiêu của chuyến đi của Người: Người không đi lên Giêrusalem để làm
vua, nhưng là để hy sinh mạng sống. Bước theo Người có nghĩa là chịu hy sinh
với Người. Người đã nhấn mạnh trên điểm này, nhưng các bạn đồng hành không
hiểu. Họ đang bị mù, họ cứ muốn giữ mắt nhắm lại và mơ những chỗ nhất trong
vương quốc. Người mù Giêrikhô tượng trưng cho các môn đệ và tất cả những ai
chưa được thấy ánh sáng của Đức Kitô, chưa được đón nhận Tin Mừng.
4.
Cần phải được Đức Giêsu mở mắt tâm hồn để hiểu bản thân và sứ mạng của Người,
cũng như để có thể sẵn sàng bước theo Người, làm môn đệ Người. Và khi đã nghe
tiếng Đức Giêsu kêu gọi trong cuộc sống, cần mau mắn dứt khoát bỏ đi mọi sự,
như bốn môn đệ đầu tiên đã tức khắc bỏ tất cả để đi theo Người. Phải chấp nhận
liều lĩnh, để từ đây cuộc sống của người Kitô hữu sẽ là một sự hiệp
thông thân tình với Người.
Lm PX Vũ Phan
Long, ofm
[1]
1) Bản văn Đệ
nhị Luật
- Đnl 26,5 LXX: Syrian apebalen
(apoballơ ở dạng aorist) ho patr mou (dịch cho r sắc thi:
Cha tơi đ dứt bỏ Syri ra sau lưng)
- Đnl 26,5 Vg:
Syrius vagus erat pater meus (Bản văn La-tinh giữ nội dung của Bản LXX, chứ không giữ lại động tù apoballơ: Cha tôi đ l người Syri)
Bản văn Híp-ri là một câu
khác hẳn, và được dịch chẳng hạn trong Bd CGKPV: Ông tổ
tôi là người A-ram phiêu bạt
2)
Bản văn
Isaia
- Is 1,30 LXX: esontai gar hơs
terebinthos apobeblkuia (apoballơ ở dạng participle perfect) ta phylla (dịch: Vì cc ngươi sẽ ra như cây vân hương mất hết/trụi hết các lá)
CGKPV : Vì cc ngươi sẽ như cây vân hương lá
héo tàn
Nguyễn
Thế Thuấn: Quả các ngươi sẽ nên như sến lá ú tàn
Hai bản dịch này đều dịch là “lá héo tn” hay “l tn” vì dựa vo bản Híp-ri với động từ navl, “to be withered, to becom withered”.
- Is 1,30 Vg:
3)
Bản văn
Thư Do thái
- Dt 10,35 Hy-lạp: M apobalte
(apoballơ ở dạng aorist2 subjunctive) oun tên parrêsian hymôn (dịch: Vậy anh em đừng đánh mất lịng tin tưởng mạnh dạn của anh em – CGKPV)
- Dt 10,35 La-tinh: Nolite
itaque abicere confidentiam vestram