1.-
Ngữ cảnh
Bài
này rút từ Diễn từ cánh chung (ch. 13) của Tin
Mừng Mccơ là chương nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Diễn từ
này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hãy tỉnh thức. Lời kêu gọi này
không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với (13,3), nhưng
nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi này được tác giả Mc nêu bật bằng hình ảnh người giữ cửa.
Vậy
“tỉnh thức” trong Mc 13 có nghĩa là
gì? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không
phải chỉ có nghĩa đen ấy.
2.-
Bố cục
Đoạn văn này được bố cục theo kiểu cấu
trúc đồng tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35:
a : Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (c. 33);
b
: Dụ ngôn người chủ đi xa (c. 34);
c : Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35);
b’: Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (c. 36);
a’: Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37).
Chúng
ta cũng có thể thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ý tưởng ta
không biết thời gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.
Anh em phải coi
chừng, phải tỉnh thức (33a) |
Vậy anh em phải
canh thức (35a) |
vì anh em không
biết khi nào thời ấy đến (34c) |
vì anh em không
biết khi nào (35b) |
phải canh thức (34c) |
không được ngủ (36b) |
3.- Vài điểm chú giải
- hãy tỉnh thức (33): Tác giả dùng
động từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite;
đây là một từ của nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các
bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc
21,36; Ep 6,18; Dt 13,17).
- cũng như người kia trẩy phương xa..., và
ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi
phương xa, thì “để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ” là hợp lý rồi. Còn “chỉ
định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là
cách bố trí của người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ý
đến việc “canh thức” ban đêm? Ở đây tác giả Mc
nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi tỉnh thức, dụ ngôn
những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với dụ ngôn
người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ý nghĩa của “đêm”.
Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những
nén bạc” như trong Mt và Lc.
- lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng
sáng (35):
Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Còn người Do Thái
quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl
7,19; Lc 12,38). Nhưng tại sao bài Tin
Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?
Trong
nền văn chương Do Thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”,
còn tương lai được ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói
về “đêm” theo nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng
hạn lời ông Bôa nói với bà Rút: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (#150 sau CN) trích quy chiếu về “thế
gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R.
6,4). Các kinh sư thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi
sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya”) cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là
câu nhắm đến thế giới hiện nay, được so sánh với đêm tối.
Giống
như các kinh sư, thánh Phaolô đã dùng những ý tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ
hiện tại cho đến ngày Quang Lâm (Rm
13,12). Vì thế, ông đã kêu gọi người Rôma: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy”
(13,11), vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, vì “đêm sắp tàn, ngày gần
đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông còn nói: “Vì chính anh
em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Hình ảnh “kẻ trộm đến ban đêm” không có trong nền văn
chương Do Thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi (Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc truyền thống Ki-tô giáo bắt
nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người Thêxalônica hãy tỉnh thức (1 Tx 5,6).
Vậy
lời kêu gọi hãy tỉnh thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm
khuya phải được hiểu theo chiều hướng này.
Nhưng làm thế nào dung
hòa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn
hạn)? Trong văn chương Do Thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một bà chủ nhà có một nữ tỳ
Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ nói với bà: “Tôi đẹp hơn
bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi chúng ta sẽ biết ai là
người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài tường thuật tiếp: Các
dân nước nói với
Bài dụ ngôn này cũng có
những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm tối chính là thời gian hiện tại
với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu.
- phải canh thức (36): Trong nền văn
chương Do Thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một viễn tượng
quốc gia.
Trong Tân Ước, giọng
điệu ái quốc này không còn nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những
quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế gian đang nằm dưới quyền
của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đã
quay lưng lại với Ngài, là nguồn ánh sáng. Vì thế, thời gian hiện tại chính là
thời kỳ của bóng tối và đêm khuya.
Tuy nhiên, khi Đức
Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh
sáng đã ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức
Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc
2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin
vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, thì không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19; Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đã được giựt ra khỏi vương quyền của bóng tối (Cl 1,13), dù đã trở thành con cái ánh
sáng và ban ngày (1 Tx 5,5), người ấy
vẫn còn sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn còn ở trong một hoàn cảnh có
thể bị cám dỗ, có thể sa ngã, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm bắt lại. Để
mình bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông mình theo những chuyện thế
gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với “đêm”:
“giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi vì người ta ngủ ban đêm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ
(33)
Lời kêu gọi mở đầu này
xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải
canh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm.
* Dụ ngôn người chủ đi xa (34)
Điểm chính của dụ ngôn là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người
ta không thể tiên liệu. Ông có thể về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc
người giữ cửa phải canh thức liên tục. Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính vì
thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều hành các công việc của nhà và sinh
lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là “các gia nhân” vừa là “người giữ
cửa”; họ phải vừa làm việc vừa canh thức. Có thể hiểu đây là các vị lãnh đạo cộng
đoàn Kitô hữu.
* Lặp lại lời kêu gọi
mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)
Lời kêu gọi được lặp
lại như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đã được
giải thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là
lúc chủ nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp
bênh cách biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà
gáy hay tảng sáng”.
* Tiếp nối dụ ngôn
người chủ đi xa trở về (36)
Các môn đệ của Đức Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được
“ngủ”; họ vẫn sinh hoạt bởi vì ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải
canh thức. Bởi vì biến cố ông chủ trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là
“cùng làm việc”. Đức Giêsu đang hành động trong thế giới để đưa đến một nhân
loại mới. Người lôi kéo con người vào làm việc với Người, làm cho họ thành
những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người. Nhưng để có thể cộng tác với Đức
Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những gì Người đang làm.
* Lặp lại lời kêu gọi
“tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)
Lời
kêu gọi ở đây chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở
c. 33, lời kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đã xác nhận toàn bản văn
bên trong được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu
gọi được gửi rộng rãi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị
lãnh đạo cộng đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.
+ Kết luận
Vậy, “phải canh thức”! Đang khi tiến đi trong
thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của mình và
ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ
trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính cánh chung: hoàn
toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến trong tương lai.
Theo nghĩa này, người tín hữu không thể canh thức nếu không chấp nhận chiến đấu
(Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1 Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ
bây giờ, sống trước đời sống tương lai (x. Rm
13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp
người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những gì
thuộc về thế giới, không sợ hãi loài người, không tìm danh vọng, không khắc
khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t).
5.- Gợi ý suy niệm
1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện
tại trong khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những
người đã được giải thoát, bởi vì bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng lòng nếu
thấy các môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách
thức thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.
2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm
vui. Niềm vui này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, vì nó
trào vọt ra từ một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức
như thế còn là sống trong bình an, cho dù có gặp phong ba bão táp, bởi vì chính
Đấng Phục Sinh đã cam đoan: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh
em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Cuối
cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi vì cái nhìn của chúng ta
luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về “ngày” đang lại gần.
3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu
nói: “Đời sống của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu
thiu ngủ, những giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn
chăm chú và điều độ của con tim nhân loại”. Còn Schweizer định nghĩa canh thức
là như “thái độ trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm
Đức Chúa đến và không để mình bị sao nhãng trong thái độ sẵn sàng thường hằng
này đối với Ngài bởi bất cứ điều gì”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức
Giêsu.
Lm PX Vũ
Phan Long, ofm