Ông
Gioan, ngưỜi làm chỨng
(Gioan 1,6-8.19-28 – CN III MV - B)
1.- Ngữ cảnh
Tin Mừng IV có một Mở đầu trong đó có Lời Tựa là một bài
suy niệm cao sâu về mầu nhiệm Ngôi Lời (Ga
1,1-18), và Các chứng từ về Đức Giêsu, do Gioan Tẩy Giả, Anrê và Nathanaen nêu ra
(1,19-51). Bản văn được đọc trong Phụng vụ hôm nay gồm một đoạn nhỏ trích
từ Lời Tựa (1,6-8) và đoạn đầu trích từ Các chứng từ (1,19-28).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành
hai phần:
1) Gioan là người làm
chứng (1,6-8);
2) Gioan làm chứng
(1,19-28):
a) Làm chứng cho phái đoàn sứ giả (1,19-23),
b) Làm chứng cho người Pharisêu (1,24-28).
3.- Vài điểm chú giải
- lời chứng (19): Điểm đáng lưu ý nhất, đó là tác giả
đã chọn ra từ trong ngôn ngữ thuộc ngành tư pháp từ ngữ “lời chứng/làm chứng” (martyria:
14 lần trong Ga)[1], và đã dùng từ đó mà mở
ra hoạt cảnh này, cùng với động từ tương ứng là “làm chứng” (martyreô: 33
lần trong Ga; 2 lần trong TMNL). Cũng ghi nhận rằng các từ ngữ martyria
và martyrein xuất hiện trong đa số các chương của TM IV ngoại trừ các chương 6, 9, 11, 14, 16, 17 và 20; tuy thế, các
chương này cũng nói đến “làm chứng”. Các TMNL
ưa dùng các từ như “công bố” (kêryssô) hoặc “loan báo Tin Mừng” (euangelizomai.
Rất có thể tác giả TM IV đã dùng ngôn
ngữ tư pháp do hoàn cảnh trong đó ngài viết Tin
Mừng (giữa hoặc cuối những năm 90 [?], lúc mà quan hệ giữa người Do Thái và
các Kitô hữu đã trở nên khá căng thẳng: x. Ga
9,22; 12,42; 15,26–16,2).
- người Do Thái từ Giêrusalem (19): Bởi vì họ có thể cử các tư tế và các
thầy Lêvi đi, hẳn “người Do Thái từ Giêrusalem” chính là giới lãnh đạo Do Thái
giáo.
- ông tuyên bố thẳng thắn (20): dịch sát là “ông không chối”.
- vị ngôn sứ (21): Đây chính là dung mạo ngôn sứ được hứa trong Đnl 18,18.
- cởi quai dép (27): Đây là công việc của một nô lệ. Khi chủ nhà đi
thăm bạn, người nô lệ đi theo. Trước khi chủ bước vào nhà bạn, người nô lệ cúi
xuống cởi quai dép cho chủ, và đứng cầm hai chiếc dép chờ chủ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Gioan là người làm chứng (6-8)
“Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan” (Ga 1,6). TM IV đã giới thiệu Gioan bằng một câu như thế ngay giữa Lời
Tựa. Đối diện với Ngôi Lời, ngôi vị Thiên Chúa toàn năng luôn luôn “có” từ muôn
thuở đến muôn đời muôn kiếp (1,1-5), đây là Gioan, một con người tầm thường
xuất hiện, đi từ hư vô ra cuộc sống. Sau khi đã nêu bật sự cao vời vô biên của
Đức Kitô, tác giả mau mắn xác định sự cao cả của Gioan: ông được Thiên Chúa sai
phái và có sứ mạng làm chứng cho ánh sáng: “Ông đến để làm chứng, và làm
chứng về ánh sáng” (1,7).
Sau Lời Tựa, tác giả bắt đầu bài tường thuật cách trang trọng, và cũng
bằng một câu nói về Gioan: “Và đây là lời chứng của ông Gioan” (1,19).
Chúng ta sẽ suy ngẫm về tư cách và công việc làm chứng của Gioan.
Vừa nghe câu mở này,
chúng ta có cảm tưởng là mình được gợi ý nhìn vào một cảnh trong phòng
xử án. Ấn tượng này dường như có cơ sở. Ngay tức khắc, tác giả giới thiệu Gioan
như người đang bị thẩm vấn. Bản văn nói, “người Do Thái”, hẳn đây là giới lãnh
đạo Do Thái giáo, đã gửi một phái đoàn đến đặt các câu hỏi cho Gioan.
Phái đoàn đó gồm có các tư tế và mấy thầy Lêvi, tức đây là giới chức trách có
nhiệm vụ chăm sóc Đền Thờ Giêrusalem. Câu hỏi thứ nhất họ đặt ra có vẻ nhẹ
nhàng, không có gì thâm độc: “Ông là ai?”, câu hỏi bật ra như một kiểm tra về
lý lịch. Tuy nhiên, câu trả lời của Gioan thì lại có gì đó trầm trọng. Thay vì
khai lý lịch, ông lại trả lời trang trọng, hầu như là nói lên một lời
thề, rằng ông không phải là người nào đó. Ông tuyên xưng rằng ông không phải là
Đấng Kitô.
Thế là phái đoàn chính thức
thúc ép ông tiếp, để có thể trả lời hết các câu hỏi nhằm điều tra lý lịch của
ông. Các câu hỏi tuôn ra thật nhanh. “Ông có phải là ông Êlia không?” và “Ông có
phải là vị ngôn sứ chăng?”. Với cả hai câu hỏi này, vị chứng nhân vẫn cứ trả lời
“Không!”. Đến đây dường như đã cảm thấy bực bội khó chịu, phái đoàn hỏi: “Thế ông
là ai?”. Tuy bị thúc bách như thế, nhưng với giọng hẳn là nhẹ nhàng và vẫn trang
trọng mà nghe ra thì có vẻ khôi hài nữa, vị chứng nhân đáp bằng những lời lẽ
trích từ sách Isaia: “Tôi là tiếng người
hô [= tiếng nói của người hô] trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức
Chúa đi” (x. Is 40,3).
Trong các cuộc xử án, việc
xác minh lý lịch của người chứng chỉ là một chuyện thủ tục được thực
hiện nhanh chóng, nhưng ở đây, lại không phải là như thế với vị chứng nhân tên
là Gioan. Ông cứ toàn lo trả lời là ông không phải là ai thôi – như một kiểu
xác minh lý lịch tiêu cực – chứ không nói ông là ai. Cuối cùng, khi ông xác minh
về ông, bản lý lịch tự khai của ông lại cho biết ông là “tiếng người hô” (tiếng
nói, phônê).
Hình ảnh vị chứng nhân cứ
tránh né nêu lý lịch góp phần làm cho tấn bi kịch được triển khai. Óc tò mò của
chúng ta bị kích thích. Các câu hỏi phát sinh: Đấng Kitô là ai mà Gioan nói ông
không phải là Người? Và nếu Gioan chỉ là một tiếng nói, thì ông phải nói
gì?
Hoạt cảnh cuộc thẩm vấn
vừa rồi không có trong các TMNL. Tuy nhiên,
những suy diễn về Đấng Mêsia thì đã quá quen thuộc tại Paléttina vào thế kỷ i. Lúc đó người ta đang chờ đợi một số
gương mặt trở lại. Trong TM Lc, ta thấy dân chúng rất tín nhiệm
Gioan (x. Lc 3,15); rồi có chuyện vua
Hêrôđê băn khoăn về cái chết của Gioan (Lc
9,7-9). Những tin đồn và suy đoán như thế là bối cảnh cho câu hỏi Đức Giêsu đặt
ra cho các môn đệ Gioan khi họ đến gặp Đức Giêsu theo ý ông (x. Mt 11,2-6; Lc 7,18-23) cũng như cho các câu trả lời các môn đệ đã nêu ra khi Đức
Giêsu hỏi người ta bảo Người là ai (Mt
16,13-16; Mc 8,27-29; Lc 9,18-20). Dù sao, Đấng Kitô sẽ là vị vua
lý tưởng như Đavít; Người sẽ khôi phục quyền tự chủ trên đất nước và quy tụ người
Do Thái đang tản mác lại. Người cũng có thể là như ngôn sứ Êlia, mà truyền
thống tin là sẽ trở lại vào Ngày của Chúa (x. Ml 3,23). Người cũng có thể là chính Môsê trở lại. Gioan đã thề là ông
không phải là bất cứ dung mạo trứ danh nào như thế, những dung mạo đang được
mong chờ tha thiết. Ông chỉ là “tiếng nói”.
Tuy nhiên, cuộc thẩm vấn
vẫn tiếp tục. Người ta hỏi thế thì tại sao ông lại làm phép rửa. Tác giả ghi
nhận là trong nhóm được cử đi, có những người thuộc phái Pharisêu, tức những
người Do-thái giữ thật nghiêm nhặt Luật Môsê. Như thế, Gioan vừa mạnh mẽ từ
chối đồng hóa mình với bất cứ dung mạo cánh chung nào đang được dân chúng chờ
đợi, vừa làm chứng trước những đại biểu của toàn thể thế giới Do Thái.
Không có một chi
tiết nào trong các nguồn văn chương Do Thái nói rằng Đấng Kitô, Êlia hoặc Môsê,
hoặc vị ngôn sứ nào sẽ làm phép rửa. Như thế câu hỏi đăt ra cho Gioan là câu hỏi
về quyền. Do quyền nào mà ông làm phép rửa? Một lần nữa, dường như Gioan lại né
tránh câu hỏi. Ông chỉ trả lời theo cách bí ẩn. “Tiếng nói” chỉ nhìn nhận rằng
ông làm phép rửa trong nước. Nhưng rồi ông nói rằng “có một vị đang ở giữa các
ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép
cho Người” (Ga 1,26-27).
Dường như ở đây Gioan quy
chiếu về một truyền thống Do Thái nói rằng Đấng Mêsia sẽ cứ ở trong tình
trạng tăm tối cho tới khi Người được Êlia giới thiệu cho
Tác giả TM IV không nhấn mạnh về vai trò của
Gioan là làm phép rửa cho Đức Giêsu như các TMNL
(Mt 3,1-17; Mc 1,2-11; Lc 3,1-20); do
đó ngài không gọi Gioan là “Tẩy Giả” (Mt
3,1) hay “người làm phép rửa” (Mc 1,4).
Nếu ngài có nói đến phép rửa ấy chỉ là để đưa đến cuộc tra hỏi thôi. TM IV cũng không giới thiệu Gioan là như
một dung mạo ngôn sứ kêu gọi người ta mau mau hoán cải vì Nước Thiên Chúa
đã đến gần. Ngài chỉ quan tâm xác định chân tính của Gioan là “tiếng nói” thôi;
ông phải nói điều gì đó. Thật ra cả bốn TM
đều vận dụng bản văn Is 40,3 (Mt 3,3; Mc 1,3; Lc 3,4), nhưng
trong TM IV, chính Gioan lại gán cho
mình vai trò làm tiếng nói: tác giả muốn nhân vật Gioan của mình “nói cho chính
mình”. Trong khi các TMNL trích Is 40,3 như là một lời bình về
Gioan, câu này lại được Ga 1,23 trích
như là lời của chính Gioan.
Truyện về Gioan trong TM IV là truyện của riêng tác giả. Ngài có
cách thức riêng cũng như ngôn ngữ và văn phong riêng mà miêu tả Gioan, mà chia
sẻ cái nhìn của ngài về ông. Ở đây hoạt cảnh đúng là như một cuộc xử án
gồm hai giai đoạn thẩm vấn Gioan. Ngôn ngữ của chương 1 (và của cả TM IV) phù hợp với bầu khí của phòng xử án:
Ngài viết về lời chứng (martyria, c. 19), lời tuyên xưng (homologeô,
2 lần trong c. 20), và việc chối (arneomai, c. 20); ngài cũng viết về việc
hỏi (erôtaô, cc. 19.21.25) và trả lời
(apokrinomai, cc. 21; apokrisis, c. 22) và về những người đã được
cử đi (apostellô, cc. 19.22.24)[2].
+ Kết luận
Từ phân đoạn Ga 1,6-8, ta thấy Gioan không phải là đại
sứ đặc mệnh toàn quyền; ông được Thiên Chúa sai đến với một mục tiêu rõ
rẹt: “làm chứng về ánh sáng” (cc. 7.8). Sứ mạng của ông phải được nhìn trong
viễn tượng vũ trụ, siêu lịch sử, nhưng vai trò của ông là chứng nhân và chỉ là
chứng nhân mà thôi. Nhiệm vụ của ông tập trung vào việc làm cho
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sứ mạng của Gioan là làm chứng cho Đức Giêsu.
Sứ mạng này quan trọng đến nỗi trong Lời Tựa, ông được nhắc đến hai lần: một
lần như là “chứng nhân” (Ga 1,6)
và lần kia thì nhắc lại lời chứng của ông (1,15). Do đó, cứ theo TM IV, hẳn là ông phải được gọi là “Gioan
người làm chứng”. Danh hiệu mà Họi Thánh Đông phương gán cho ông, “Gioan vị
Tiền Hô”, mở ra hai sứ mạng của ông, làm phép rửa và làm chứng.
2. Gioan là chứng nhân của ánh sáng (1,6-8). Điều
nghịch lý là ánh sáng lại cần đến một chứng nhân. Ánh sáng thật đang
rạng soi cho mọi người (x. 1,9), thế mà không phải là loài người đang tự nhiên
sống dưới ánh huy hoàng của ánh sáng này. Như một kho báu được chôn
giấu, trước tiên ánh sáng này cần được khám phá; chỉ sau đó ánh sáng mới tỏa
rạng và mọi người có thể thực sự thấy được. Đặc điểm của Đức Giêsu là thực tại
chân thật của Người không chỉ thấy được ở bề mặt, và không phải bất cứ ai cũng
có thể tiếp cận Người. Người không tỏ mình ra với cung cách áp đảo, Người không
ép buộc bất cứ ai; người ta luôn luôn có thể tránh Người và sống không cần
Người. Đức Giêsu là ánh sáng đòi hỏi tự do quyết định của con người. Chính vì
Người ở trong tình trạng ẩn mình, Đức Giêsu cần có những chứng nhân. Gioan là
chứng nhân đầu tiên của Người, giúp cho người ta có thể đến với Người để nhận
được ánh sáng. Nhưng cả lời chứng của Gioan cũng không phải là một bằng cớ
bó buộc: mọi người phải tin nhờ ông (1,7). Chỉ ai nhờ ông mà tin thì mới đến được
với Đức Giêsu là ánh sáng.
3. Gioan nói như chứng nhân và khẳng định tính khả tín của chính ông.
Ông nói thẳng ra ông không phải là ai (1,19-21) và ông là ai (1,22-23) và ai sẽ
đến sau ông (1,25-27). Ngay trong Lời Tựa, tác giả TM đã cho biết: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng
về ánh sáng” (1,8). Trước tiên ông nói ông không là ai, như để tránh che mất
Đấng ông phải làm chứng cho, nếu như ông lo khẳng định về bản thân. Rồi khi phải
nói ông là ai, thì ông cho biết ông chỉ là tiếng của người hô trong hoang địa:
hoạt động của ông có tầm quan trọng đặc biệt vì được chính Kinh Thánh loan báo, được Thiên Chúa quy định, nhưng chỉ là một
tiếng nói loan báo rằng Chúa đang đến và khuyến khích người ta dọn lòng đón
tiếp Người.
4. Về nhân vật cao trọng mà ông làm chứng cho, Gioan chỉ khẳng định
hai điều: Người đang ở giữa họ, nhưng họ không nhận biết Người; Người cao trọng
đến mức chính Gioan cũng không xứng đáng phục vụ Người theo cách thức của một
nô lệ. Ẩn mình và cao trọng vẫn là hai nét tiêu biểu của Đức Giêsu. Người là
ánh sáng tỏa rạng trong tình trạng ẩn tàng đồng thời là ánh sáng chân thật duy
nhất.
5. Bất cứ Kitô hữu nào hôm nay cũng cần thấy mình
là một chứng nhân như Gioan. Họ biết mình không là gì cả khi sánh với
Đấng họ phải làm chứng cho. Tuy nhiên, chính Đấng ấy lại muốn chọn họ để tỏ mình
ra cho thế giới. Tình trạng cao cả mà thật ra thấp hèn, thấp hèn nhưng cũng cao
cả, đã là tư cách của Gioan, thì cũng là thân phận của mọi Kitô hữu.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
[1] Từ ngữ martyria được dùng 4 lần trong TMNL
(Mc 14,55.56.59 và Lc 22,71), cả 4 lần này đều thuộc về cuộc
xử án Đức Giêsu.
[2] Câu truyện được đặt trong một tác
phẩm trong đó các từ ngữ rõ ràng mang màu sắc pháp lý, như kết án (katêgoreô,
5,45; 8,6), và thuyết phục (elenchô, 3,20; 8,46; 16,8), bảo vệ (paraklêtos,
14,16.26; 15,26; 16,7), án xử (krisis, 3,19; 5,22.24.27.29.30; 7,24; 8,16;
12,31; 16,8.11) và xét xử (krinô, 3,17.18 (2x); 5,22.30; 7,24 (2x).51;
8,15 (2x).16.26.50; 12,47 (2x).48 (2x); 16,11; 18,31).