Chúa Nhật 4 Mùa Vọng Năm B
Mầu Nhiệm Nhập Thể
(2Samuel 7,1-5.8b-11.16; Roma 16,25-27; Luca 1,26-38)
Phúc Âm: Lc 1, 26-38
"Này Trinh Nữ sẽ thụ thai và sẽ sinh một
con trai".
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến
một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một
người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng:
"Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe
lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì
đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và
đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên
Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời
trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó
xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với
trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ
sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ
trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được
sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không
làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa,
tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
Suy Niệm Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
(2Samuel 7,1-5.8b-11.16; Roma 16,25-27; Luca
1,26-38)
Suy niệm: Mầu Nhiệm Nhập Thể
"Tình yêu" là hai tiếng nói luôn ở
trên môi miệng và trong con tim của nhân loại, hai tiếng nói căn bản và thâm
sâu nhất của cuộc sống.
Sinh ra, lớn lên và chết đi, lúc nào con người
cũng mong đợi tình yêu.
Có tình yêu, con người hết là những viên đá nằm
lạnh lùng bên cạnh nhau trên một con đường, những thân cây vô tri vô giác mọc
lên trong một đám rừng hay những con vật đi ăn chung thỉnh thoảng cắn xé nhau
để tranh miếng mồi ngon.
Tình yêu khiên con người không những sống gần
nhau, mà còn đi vào cuộc đời của nhau, chấp nhận chia sẻ từ miếng cơm manh áo
cho đến tâm tình ý tưởng của nhau, cùng vui, cùng khổ, cùng lao động, cùng phấn
đấu và vươn lên thoát khỏi nô lệ và vong thân trong xã hội. Tình yêu là ánh
sáng chiếu dọi, là sức nóng sưởi ấm giúp con người triển nở trong hạnh phúc.
Tình yêu là động lực thúc đẩy con người đến với
nhau, gắn bó với nhau, để tất cả nên một: một lòng, một trí, một ý chí, một
cuộc đời.
Thánh Kinh luôn khẳng định Thiên Chúa thương
yêu con người cách đặc biệt. Tình yêu ấy khiến Thiên Chúa đến với con người,
trước khi con người đến gặp Thiên Chúa.
Tình yêu được biểu lộ trong lịch sử, biến lịch
sử thành môi trường cứu độ, nơi gặp gỡ giữa con người và Thiên Chúa.
Những chương đầu của sách Sáng thế cho thấy
Yavê sống thân mật với con người, ngay từ khi con người được tạo dựng. Ngài đi
dạo mát với con người trong vườn
Sách Sáng thế còn cho thấy Ngài đến với con
người qua dấu hiệu của thời tiết. Nhưng đặc biệt Ngài đã đến viếng Abraham và
ban cho ông lời hứa. Ngài đã ký kết với Abraham một giao ước tình yêu và nhất
quyết thi hành Giao ước đó. Ngài để ý đến nỗi khổ của ông: tuổi đã già mà không
có con nối dõi tông đường. Ngài đã cho ông một miêu duệ lớn gấp trăm ngàn lần
mong muốn.
Khi con cháu Abraham chịu khổ cực và bị áp bức
trong nước Aicập ngoại bang, Ngài đã đến để giải phóng họ và Ngài muốn chọn
Maisen - một người có lòng yêu nước nồng nàn - Ngài đã gọi Maisen lúc ông bị
đuổi bắt và chạy trốn vào sa mạc, vì đã giết chết một người ngoại bang để bênh
vực cho kẻ đồng hương.
Với Maisen, Thiên Chúa cũng đã ký kết một giao ước
và từ đó thiết lập một dân riêng làm chứng cho Ngài giữa muôn nước.
Trong sa mạc, Thiên Chúa luôn hiện diện. Hòm
bia thánh là dấu hiệu sự gần gũi: ở giữa và ở gần kề. Qua đám mây và cột lửa,
chính Ngài hướng dẫn họ suốt cuộc hành trình.
Sự hiện diện của Chúa là sự hiện diện giải
phóng. Ngài cứu dân khỏi lầm than đau khổ và giúp họ chiến đấu với kẻ thù để
sống còn và tiến dần vào Ðất hứa.
Khi dân Chúa đã sống ổn định và thiết lập một
vương quốc bình an thịnh vượng, Chúa vẫn hiện diện và bảo đảm cho sự trường tồn
và hạnh phúc của họ. Ðavít muốn xây cho Chúa một đền thờ, nhưng Ngài muốn hiện
diện ở giữa lòng dân. Qua lời sấm Nathan, Ngài chưa bao giờ có ý nghĩ đòi dân
xây cho mình một đền thờ bằng gạch đá như các thần minh của dân ngoại. Chính
dân là đền thờ Ngài ngự. Và Ðền thờ đó do Ngài xây dựng, chứ không phải do tay
con người làm nên. Chính Chúa tạo ra một Ðền thờ đích thực; đó là dòng dõi, là
con cháu Ðavít; và qua những con người sống thực thuộc dòng dõi ông, Ngài sẽ
hiện diện trong lịch sử loài người.
Với Ðavít và miêu duệ ông, Thiên Chúa càng ngày
càng gần gũi với nhân loại. Ngài tác động trên lịch sử loài người và đặc biệt
trong lịch sử dân riêng Ngài. Ngài hướng dẫn và thanh luyện dân Ngài qua những
biến cố đau thương như thất trận, lưu đày... Ngài răn bảo và thúc giục... đôi
khi Ngài phẫn nộ - nhưng Ngài cũng an ủi vỗ về và hứa hẹn một thời kỳ vui mừng
tràn lan ơn cứu độ. Dụng cụ Chúa thường dùng chính là "lời nói" và
"cuộc sống" các tiên tri.
Ngài thương dân như cha yêu thương con cái, như
mẹ bế bồng nâng niu, như mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Nhưng Thiên Chúa như chưa bằng lòng với những
gì Ngài đã làm cho dân. Ngài muốn đến cư ngụ với dân, không chỉ như một thần
linh vô hình, nhưng chấp nhận hoàn toàn thân phận con người và chia sẻ trọn vẹn
kiếp sống của nó. Thiên Chúa trở thành Người như mọi người. Ngài bị ràng buộc
bởi thời gian và không gian. Ngài sẵn sàng đón nhận những khắc khoải lo âu của
cuộc sống. Ngài cũng ăn, uống, lao động, phấn đấu cho đời sống vật chất như mọi
người. Ngài cũng vui, cười và than khóc như những ai khác. Ngài chấp nhận mọi
giới hạn và ngay cả cái chết là giới hạn sau cùng và quan trọng nhất của con
người.
Yêsu, con của Maria và Yuse thuộc dòng dõi
Ðavít là chính Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Nhưng Ngài cũng là con của
trần thế, con của một dân tộc, con của người Trinh nữ nghèo nàn sống ở Nadarét.
Ðó là khía cạnh huyền diệu nhất của mầu nhiệm
Nhập thể! Chúa muốn làm con của trần thế, để ta nhận ra gương mặt đích thực của
Ngài, một tình thương thực tế không viễn vông, không lý thuyết Ngài không là
"kẻ thuộc thế giới xa lạ". Theo Ngài không phải để đi về thế giới ảo
tưởng nào khác, nhưng để sống tình yêu chân thật.
Maria thụ thai Ðức Yêsu là nhân loại thụ thai
Ðức Yêsu! Maria hạ sinh Ðức Yêsu là nhân loại hạ sinh Ngài. Bài Phúc Âm Luca 1,
26-38 ví Maria như thiếu nữ Sion, nghĩa là
Mầu nhiệm Nhập thể là tột đỉnh của sự gặp gỡ
giữa con người và Thiên Chúa: Thiên Chúa đến viếng thăm dân Người khiến từ lòng
dân nảy sinh Ðấng Cứu độ. Chồi cây Yêsê do Thiên Chúa vun trồng đã nở hoa.
Ðức Yêsu là bí tích, là dấu hiệu, là điểm gặp
gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Ðức Yêsu là nơi hội tụ của tình thương giữa
Thiên Chúa và dân Người: Ngài vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa, vừa là tiếng
đáp trả của nhân loại.
Phúc Âm cho thấy Ðức Yêsu là một con người cụ
thể, với những nét đặc thù và sống động. Nhưng Ðức Yêsu còn là Con của Chúa
Cha. Từ lúc sinh ra cho đến khi chết, mọi hoạt động của Ngài đều do Thánh Thần
của Chúa Cha thúc đẩy. Lc 1,35 nhấn mạnh đến sự can thiệp của Thánh Linh :
"Thánh Thần sẽ đến trên Cô và quyền năng Ðấng Tối cao trên Cô rợp
bóng".
Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động trong lịch
sử trước ngày Ðức Yêsu sinh ra. Nhưng Ngài đặc biệt hiện diện trong cuộc đời
Yêsu. Và nhờ quyền năng Thiên Chúa, Yêsu tuy phải chết như mọi người, đã sống
lại và chiến thắng sự chết, báo hiệu "phần số" tốt đẹp Thiên Chúa
dành cho nhân loại.
Ðức Yêsu sống lại được Chúa Cha ban trọn vẹn
Thánh Linh và chính nhờ Thánh Linh mà Ðức Yêsu hiện diện giữa dân Ngài
"mọi ngày cho đến tận thế".
Nhờ Thánh Linh Ðức Yêsu vẫn ở giữa loài người,
không phải chỉ cách đây hai ngàn năm, mà Ngài vẫn hiện diện, vẫn sống giữa nhân
loại hôm nay. Giáo hội là nơi Ngài hiện diện bằng chính những hoạt động không
ngừng của Thánh Linh Ngài ban. Ngài vẫn tiếp tục hiện diện qua các sự kiện lịch
sử và các biến cố. Ta có thể gặp Ngài và phải tìm Ngài trong đó. Ngài ra đi trở
về cùng Cha, không phải để rời bỏ trần thế, nhưng để dễ dàng đồng hóa mình với
mọi người sinh ra trong lịch sử, đặc biệt với những người bé mọn, những người
đói khát, những kẻ tù đày... Matthêô cũng như Luca cho thấy sự hiện diện của
Ðức Kitô phục sinh và lên trời trở thành hữu hình trong người anh em: "Ta
đói, các ngươi cho ăn, Ta khát, các ngươi cho uốn, Ta là khách trọ các ngươi
tiếp rước, Ta mình trần các ngươi cho mặc, Ta đau yếu các ngươi viếng thăm, Ta
ở tù các ngươi đến với Ta" (Mt 25,35-36).
Ðức Kitô vẫn luôn ở giữa chúng ta. Chúng ta sẽ
nhận ra Ngài khi cử hành nghi lễ bẻ bánh, khi lắng nghe lời Ngài, khi thao thức
tìm Ngài trong các dấu chỉ của thời đại. Chúng ta sẽ tìm được Ngài khi nhìn vào
những người anh em sống gần kề ta. Ngài ở cạnh ta, cùng xây dựng xã hội và môi
trường với ta. Với Ngài, ta sẽ góp công biến đổi trần thế thành Ðất mới, Trời
mới, thực hiện lời thánh Phaolô: "Tất cả thuộc về anh em, anh em thuộc về
Ðức Kitô, Ðức Kitô thuộc về Thiên Chúa".
Bài Giảng Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm B:
Càng gần lễ Giáng sinh, công việc chuẩn bị của
chúng ta lại càng gấp rút. Tôi ca ngợi thiện chí và nỗ lực của mọi người. Xin
Chúa chúc lành cho tất cả mọi cố gắng của chúng ta, để lễ Giáng sinh năm nay
được chan hòa ơn thánh.
Nhưng chính trong bầu khí nhiệt liệt chuẩn bị
Ðại lễ Giáng Sinh này, mà các bài sách Thánh hôm nay muốn nâng bổng tâm hồn
chúng ta lên, để thay vì chỉ mải miết thu dọn những công việc bề ngoài, chúng
ta biết tìm dịp chiêm ngưỡng những gì mà Chúa đang muốn thực hiện cho chúng ta.
Quả vậy, khi Ðavít suy tính sắp sửa xây cất cho
Chúa một đền thờ xứng đáng, Người đã sai tiên tri Nathan đến thưa nhà vua rằng:
Chính Người sẽ xây cho nhà vua một nhà, một họ, một dòng tộc để tồn tại muôn
đời. Hôm nay Chúa cũng muốn bảo chúng ta, những người đang làm hang đá, dọn
máng cỏ cho Chúa rằng: chúng ta hãy chú ý đến những gì mà Chúa đang muốn thực
hiện cho ta. Ngài sai sứ thần Gabriel đến báo tin cho Maria biết: Ngôi Lời muốn
trở thành nhục thể, Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ðó là sứ điệp của Chúa
nhật hôm nay. Sứ điệp ấy gửi đến để ta đón nhận, suy niệm rồi thực hành, để
Chúa có thể đến cắm lều ở giữa chúng ta, trong thời đại này, trên quê hương
Việt
Trước hết chúng ta hãy đón nhận Tin Mừng: Thiên
Chúa muốn sinh ra làm người. Dĩ nhiên Người không còn đầu thai nữa như xưa kia
ở trong lòng Trinh nữ Maria. Nhưng Người vẫn còn muốn đầu thai cách mầu nhiệm
trong bí tích bàn thờ này, để được đầu thai trong tâm hồn chúng ta qua việc
rước lễ, để đầu thai nữa trong nếp sống hằng ngày của chúng ta, hầu ai thấy đời
sống tốt đẹp của chúng ta, cũng nhận ra vinh quang của Chúa mà ca tụng Ngài.
Mầu nhiệm đầu thai qua bí tích Thánh Thể ấy không cần phải quảng diễn thêm.
Nhưng còn một cách nữa Chúa vẫn dùng để đầu
thai nơi ta giữa thời buổi này, chính là Lời Chúa khi đến với ta trong sức mạnh
của Thánh Thần. Lời Chúa mà ta nghe và đọc trong Thánh Kinh có thể trổ sinh
trong lòng ta một cuộc sống mới, thánh thiện và tốt đẹp. Ta sẽ trở thành con
cái Chúa một cách trung thực hơn và dần dần dòng dõi những người con Chúa trở
thành một thực tại có thể cảm nghiệm được. Ngay đến mọi biến cố xảy ra hàng
ngày cũng có thể mang theo nhiều ân sủng, khiến ai đón nhận như thánh ý Chúa,
sẽ làm cho Nước Người được lan rộng; và như vậy Thiên Chúa lại như nhập thể ở
giữa chúng ta.
Do đó thật là chủ bại khi nghĩ rằng thế giới
càng ngày xấu đi; đời sống chẳng còn nghĩa lý gì nữa; và nói đến tương lai mà
làm gì! Nhưng người có đức tin không thể nghĩ như thế. Tinh thần mùa Vọng nhắc
nhở: Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Ngài muốn đời sống con người thật đáng
sống. Và vì Thiên Chúa đã đầu thai trong lòng một Trinh nữ bình dân, nơi một
điểm nhỏ bé trên bản đồ thế giới, đang buổi suy yếu của dân tộc Dothái, chúng
ta càng có quyền hy vọng tràn trề khi hoàn cảnh chung quanh dường như không
đáng lạc quan. Chính nơi Thập giá đã có ơn cứu độ chúng ta. Chính máu chảy ra ở
trên đó đã rửa sạch ta để ta trở nên con cái Chúa. Như vậy, có gì phải bi quan?
Tất cả, ngược lại, như đang có thể kéo ơn cứu độ xuống. Và ở bất cứ hoàn cảnh
nào, ơn Chúa nhập thể vẫn có thể đến để phục hồi tất cả.
Chúng ta chỉ cần noi gương một Ðavít và một
Maria. Ðavít đã biết quên mình để nghĩ đến Chúa. Maria cũng đã tự xưng là nữ tì
để thi hành hết mọi ý định của Ðấng mình tôn thờ. Chúng ta nhiều khi không sống
như vậy. Chúng ta nghĩ đến mình quá nhiều, nghĩ đến sự sống của bản thân, và
không quan tâm đến Nước Chúa và đến tương lai của dân tộc dủ. Chúng ta tìm sự
sống mình, như lời Phúc Âm nói. Nhưng cũng như Phúc Âm đã nói tiếp: chúng ta sẽ
mất sự sống ấy. Còn ai tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính trước, sẽ được ban
cho tất cả sau. Làm sao tương lai có thể đẹp được, khi ai ai cũng chỉ biết nghĩ
đến cá nhân của mình? Ngược lại khi người ta nghĩ đến công ích, làm việc cho
công bình bác ái ngự trị, thì những khó khăn hiện tại sẽ khắc phục được dễ
dàng. Ðavít đã không nghĩ đến mình, Ðức Maria cũng thế. Nên Thiên Chúa đã tìm
được người cộng tác để thực hiện công trình của Người, ở trần gian, là chính
Người sẽ nhập thể để mang hạnh phúc đến cho loài người.
Thế thì hôm nay và những ngày sắp tới, đang khi
hân hoan sửa soạn mừng lễ Giáng sinh, chúng ta cần nhất phải mở rộng tâm hồn để
đón nhận hồng ân của Chúa đang đến với chúng ta. Ngài dùng Lời Thánh Kinh và
Bánh Thánh Thể để đi vào trong tâm hồn ta, biến ta nên con người muốn sống như
Chúa; và như vậy Ngài đang muốn nhập thể tiếp nối cuộc đời của Ngài ở nơi ta.
Ngài dùng mọi biến cố xảy đến hằng ngày, kêu gọi ta đón nhận như Thánh ý Ngài
gửi đến, để ta hợp tác thi hành trong tinh thần xã hội Kitô giáo, hầu ơn Ngài
có thể tràn lan trong thế gian, khiến Chúa ở trong mọi sự và mầu nhiệm nhập thể
được kiện toàn. Ðiều cần hơn hết là chúng ta luôn phải tin vững vàng rằng:
Thiên Chúa muốn sinh ra làm người. Người muốn sống giữa trần gian. Ngài kêu gọi
ta nhìn vào cuộc sống và muốn nhập thể với Ngài. Chúng ta có sẵn sàng đem tinh
thần Phúc Âm vào thế giới để đáp lại Lời mời gọi đó không?
Nguyện chúc tất cả anh em được như vua Ðavít và
Ðức Maria: sẵn sàng trở thành cộng sự viên của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể vì
yêu thương trần gian.
Ðức Mẹ Mùa Vọng
Chúng ta còn lạ gì: mục đích của mùa Vọng không
phải chỉ là để đi đến Mầu nhiệm Giáng sinh vì Chúa Cứu thế đã giáng sinh rồi
không còn phải trông đợi theo kiểu dân Dothái ngày trước nữa. Nhưng mùa Vọng
vẫn lấy lễ Giáng sinh làm một điểm tựa chắc chắn để lao mình về đàng xa, về
ngày Chúa quang lâm tái giáng. Mùa Vọng nhìn vào mầu nhiệm Chúa Giáng sinh để
chắc chắn về mầu nhiệm Chúa sẽ đến và mùa Vọng gợi lại thời gian trông đợi ngày
trước để kiện toàn tinh thần trông đợi ngày nay. Nói vắn tắt, mùa Vọng muốn
hiện đại hóa thời gian Cựu Ước để hoàn tất thời kỳ Tân Ước. Trong mùa này,
chúng ta được mời gọi kết thúc lịch sử để đưa nó sang đời sau. Vinh dự cho
chúng ta biết bao được cộng tác vào công cuộc vĩ đại và đẹp đẽ này.
Và cũng như Cựu Ước ngày trước đã được kết thúc
một cách tuyệt diệu nơi con người Ðức Maria, trong mùa Vọng phụng vụ này Giáo
hội cũng mời gọi ta chiêm ngưỡng Người như là khuôn mẫu phải đi tới. Người thật
là bông hoa của Cựu Ước. Những cái tinh túy nhất của Cựu Ước đã đúc nặn nên
Người. Ở nơi Người, ta có thể gặp lại tất cả lòng tin sâu xa của Abraham, lòng
cậy của tất cả Ngôn sứ, lòng mến của tác giả các thánh vịnh. Thiên Chúa đã phải
khôn ngoan nhẫn nhục dẫn đưa lịch sử dân Người và lịch sử thế giới để tạo nên
được một con người như thể để Ngôi Hai Thiên Chúa có thể giáng trần.
Nếu quả thật trong bao ngàn năm lịch sử,
"vạn phương khát vọng từ vân vũ hóa nhi" thì phải đợi đến khi Maria
xuất hiện, người ta mới thấy "nhất phiến cổ hoài tịnh thổ sản phúc
quả", nghĩa là mới tìm ra được một mảnh đất thanh sạch đón nhận đám mây từ
nhân mưa Ðấng công chính xuống. Ðức Maria vì thế trở thành lý tưởng mà Giáo Hội
và chúng ta phải đạt tới để chuẩn bị ngày Chúa trở lại.
Nhưng một lý tưởng bao giờ cũng phong phú có
rất nhiều khía cạnh thâm thúy và sâu xa, không ai có thể nói lên được tất cả,
huống nữa là nói lên trong một lúc. Tuy nhiên, mỗi lần nói, người ta vẫn ước
vọng có thể khơi lên ở nơi người nghe một cảm tình mộ mến dẫn sang một thích
thú muốn tìm hiểu thêm. Và đó là tham vọng của phụng vụ trong mùa này khi gợi
lên cho chúng ta thấy một vài nét trong cuộc đời của Ðức Mẹ.
Chúng ta đừng thấy lễ Vô Nhiễm là lễ Ðức Mẹlà
lễ Ðức Mẹ lớn nhất trong mùa này mà vội tưởng đó là hình ảnh Ðức Mẹ phải tập
trung mọi cái nhìn suy niệm của ta. Không, mùa Vọng không đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô
Nhiễm. Lễ này cũng đã được đặt ra phải vì mùa Vọng. Giáo hội La Mã vẫn có óc
lịch sử và pháp luật, thấy rằng đã tưởng niệm cuộc đời của Chúa trong các mầu
nhiệm nào thì cũng phải nên tưởng niệm cuộc đời Ðức Mẹ trong các mầu nhiệm ấy;
đã mừng việc Chúa đản sinh và đầu thai, thì cũng nên mừng sinh nhật và đầu thai
của Mẹ. Và hai sự kiện mầu nhiệm phải cách nhau 9 tháng. Lễ sinh nhật Mẹ đã
được đặt vào ngày 8 tháng 9 rồi, thì lễ Người đầu thai vô nhiễm phải đưa lên 9
tháng trước tức là phải mừng vào ngày 8 tháng 12.
Các nhà làm lịch lễ dường như không để ý đến
mùa Vọng khi đặt ra lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, nhưng đặt rồi họ mới thấy đây là một sự
trùng hợp có ý nghĩa. Có lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm, mùa Vọng Kitô giáo trở thành hân
hoan chắc chắn, khác với mùa Vọng của Dothái ngày xưa. Thuở trước, các linh hồn
thánh thiện vẫn chờ mong ngày thực hiện lời của Thiên Chúa tình yêu trong vườn
địa đàng: một người nữ sẽ sinh ra một dòng dõi đạp dập đầu con rắn. Người nữ ấy
là ai? Bao giờ Người xuất hiện để cho chúng tôi được nhìn thấy ơn cứu độ? Các
thế hệ Cựu Ước dường như lúc nào cũng hỏi nhau câu ấy. Có lần, đàn thiếu nữ
Sion tưởng đã có thể nhảy múa hân hoan vì kìa bà Yuđích cắt đầu địch thủ đang
trở về. Lần khác họ lại tưởng Esther trong vai trò cứu nguy dân tộc sẽ là người
nữ cần trông đợi... Nhưng rồi họ vẫn phải chờ, chờ mãi... Mùa Vọng của họ dường
như thiếu bảo chứng.
Nhưng nay, lễ Ðức Mẹ hiện lên bầu trời mùa Vọng
Kitô giáo, sự trông chờ của chúng ta đã có bảo đảm rõ rệt. Vì thế chúng ta có
thể hân hoan chắc chắn. Người nữ vô tì ố đã xuất hiện thì ơn cứu độ cũng đã
đến. Chúng ta chưa được nhìn thấy Chúa Cứu Thế, nhưng việc Người đến không còn
hồ nghi được nữa. Maria thật là vì Sao Mai mọc trước Mặt Trời. Mùa Vọng Kitô
giáo chắc chắn và hân hoan làm sao!
Nhưng ta vẫn phải nói, lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm đã
không được đặt ra vì mùa Vọng; mùa Vọng sung sướng đón nhận lễ này nhưng lễ này
không phải là mục tiêu mà mùa Vọng muốn tập trung những cái nhìn suy niệm của
toàn dân Chúa hướng vào. Phụng vụ Giáo hội muốn cho chúng ta có một cái nhìn
rộng rãi hơn về địa vị của Ðức Maria trong bầu khí mùa Vọng. Ngay từ đầu, phụng
vụ mùa Vọng của Giáo hội đã muốn cho hình ảnh của Người chan hòa khắp trong nếp
sống chờ mong của toàn dân Thiên Chúa. Giáo hội chỉ chờ mong với Người và bằng
cách nhìn vào Người. Nói cách khác, hình ảnh Ðức Maria không phải chỉ chiếm một
ngày trong mùa Vọng, nhưng hằng ngày trong suốt mùa phụng vụ này, Giáo hội phải
sống với Ðức Maria, phải nhìn ngắm Người và trông đợi với Người.
Kể ra làm gì những bản kinh phụng vụ mùa Vọng
gián tiếp hoặc trực tiếp nói về Ðức Maria; các bản văn ấy bây giờ đổi theo hằng
năm. Nhưng cứ bỏ các kinh ấy đi mà xem, mùa Vọng phụng vụ sẽ không còn nữa.
Ðiều đó chứng tỏ hình ảnh Ðức Mẹ thật đã được gắn liền với mùa Vọng. Chúng ta
sẽ có lợi hơn nếu để giờ tìm hiểu vì sao Ðức Trinh Nữ Mẹ chúng ta lại thiết yếu
cho tinh thần mùa Vọng như thế, vì như vậy, chúng ta mới biết được thâm ý của
phụng vụ, hầu mới biết sống được cái cốt yếu.
Tinh thần mùa Vọng như chúng ta biết nhắm thẳng
về đàng trước, chờ đón mầu nhiệm Chúa trở lại. Tinh thần đó không thụ động, mặc
cho ai muốn làm mưa làm gió ở trần gian này. Trái lại, đó là tinh thần của các
ngôn sứ ngày xưa không thể ngồi yên khi thấy các bất công xã hội và thấy các
liên minh chính trị bàn truyện thế giới như thể không còn có một sức mạnh vô
hình nào bá chủ hoàn vũ. Giáo hội biết trong giai đoạn lịch sử này những người
con Chúa phải tỉnh thức, phải giũ bỏ cuộc đời đen tối và bước đi trong ánh sáng
để càng ngày càng đi tới thời đại huy hoàng của Ðức Kitô. Thế mà Giáo hội biết
không mẫu người nào đã chuẩn bị ngày Chúa đến viếng thăm một cách đắc lực như
Trinh nữ Maria. Kể cả các ngôn sứ. Họ còn là những người trỏ tay vào Maria để
chờ đón ngày Người xuất hiện. Hơn nữa Giáo hội còn biết rõ Ðức Maria không phải
chỉ là gương mẫu chờ đợi và chuẩn bị trong quá khứ, Người đang còn chờ đợi và
chuẩn bị với chúng ta với tư cách là Ðấng Ðồng Công Cứu Chuộc. Chỉ có những thứ
thần học nông cạn mới không biết đến điều đó; mới nghĩ rằng Ðức Kitô đã chấm
dứt mọi hoạt động của Người khi trút hơi trên Núi Sọ và mới quyết rằng Ðức Mẹ
đồng trinh của Người cũng chỉ đồng công cứu chuộc đến có khi ấy. Ngược lại,
những thứ thần học chân chính đều thấy việc Ðức Kitô tắt thở trên Núi Sọ chỉ là
giai đoạn Ngài phải vượt qua để có thể hoạt động hữu hiệu hơn ở ngoài những
ràng buộc của không gian và thời gian; Ngài phải từ bỏ xác thịt yếu đuối để
hoạt động mạnh mẽ bằng Thánh Thần Ngài sẽ tuôn đổ xuống trên Giáo hội; vì Thánh
Thần tuôn đổ này chính là Thần Linh của Ngài. Những thứ thần học sâu xa đó cũng
nhận thấy ngay, lúc đứng ở chân Núi Sọ, Ðức Maria không những chưa chấm dứt vai
trò đồng công cứu chuộc của Người, nhưng ngược lại, chính khi đó, Người mới bắt
đầu trở nên Mẹ của Yoan, tức là của Giáo hội. Chính vì vậy mà tác giả sách Công
vụ các Tông đồ cho ta thấy Giáo hội ngay từ thuở sơ khai đã cầu nguyện và sinh
hoạt với Ðức Maria, Mẹ Chúa Yêsu.
Chúng ta muốn nhìn thấy các hoạt động cụ thể
của Ðức Mẹ ư? Sao chúng ta không muốn biết như thế về hoạt động của Ðức Kitô
hiện nay ở trong Giáo hội. Cả hai Ngài vẫn nội tại với đời sống hiện nay của
thế giới, nhưng không hiện diện như thân thể chúng ta đang sống. Theo tục ngữ
Việt
Muốn biết chúng ta phải cộng tác chuẩn bị bằng
cách nào sao? Phụng vụ mùa Vọng bảo chúng ta nhìn vào Ðức Mẹ. Thánh Yoan trong
sách Khải huyền cũng mơ thấy Giáo hội sau này trở thành người hôn thê kiều
diễm, tức là người trinh nữ vẹn sạch mà dung nhan Ðức Mẹ thể hiện ở trước mặt
chúng ta. Trên khuôn mặt khả ái đó, Thiên Chúa đã để lại những nét luôn luôn
hấp dẫn tình yêu thương vô bờ bến của Ngài, mà Ngài muốn cho Giáo hội có trên
nếp sống của mình. Một đôi mắt trong sạch không bao giờ dừng lại trên những gì
dơ bẩn; một đôi môi dịu dàng chỉ có sẵn những lời êm ái; một dáng điệu tùng
phục sâu xa tất cả những gì là của Chúa; một sự lanh lẹ không quản gian lao để
đi cứu với Người... Mầu nhiệm dâng mình, mầu nhiệm đồng trinh, mầu nhiệm vâng
theo ý Chúa, mầu nhiệm yên lặng trước nỗi nghi ngờ chính đáng của Yuse, mầu
nhiệm đi thăm bà Elisabeth và nhất là mầu nhiệm kết hợp tận tụy và âm thầm làm
tất cả những gì cần thiết để chờ đón Chúa: đó là những nét đã được ghi sâu
trong cuộc đời, nên dung nhan của Ðức Mẹ và mùa Vọng phụng vụ ước mong chúng ta
chiêm ngưỡng và bắt chước.
Chúng ta cũng chỉ là những con người đang có
một nếp sống âm thầm với những phận sự nhỏ nhặt, nhưng tất cả những sự âm thầm
nhỏ nhặt ấy lại là những yếu tố mà Thần Linh hiện nay đang muốn dùng để xây
dựng Nước Trời, để chuẩn bị việc Chúa Kitô tái giáng. Thật là tuyệt diệu nếu
chúng ta cũng biết sống và làm những công việc ấy như Trinh nữ Maria, với cái
nhìn trong sạch, với các nụ cười hiền dịu, với các lời lẽ từ tốn, với lòng
nhiệt thành không sợ gian nan... như dung nhan của Người đang cho chúng ta
thấy. Cuộc đời của chúng ta sẽ nên như cuộc sống của Người và khuôn mặt của
Giáo hội sẽ đang vẽ lại dung nhan Ðức Mẹ mùa Vọng.
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)