Ở LẠI TRONG TÌNH YÊU VÀ SINH HOA
KẾT TRÁI
(Gioan 15,9-17 CN VI PS - B)
1.- Ngữ cảnh
Qua bài ẩn dụ Cây nho (Ga 15,1-8), Đức Giêsu khẳng định một cách hết sức rõ ràng với các
môn đệ rằng mọi sự tùy thuộc vào sự hợp nhất của các ông với Người. Các môn đệ ở
lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong các ông (x. 15,7) và nếu
các ông tuân giữ các điều răn của Người (15,10). Tất cả xuất phát từ Đức Giêsu:
các lời và các điều răn. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận sáng kiến này của
Đức Giêsu. Như thế, các ông được liên kết với Người và có thể sinh hoa kết
trái. Trong tương quan này, vị trí của Chúa Cha được Đức Giêsu diễn tả một cách
độc đáo.
2.- Bố
cục
Bản văn
đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn
(15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa
trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em
thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng bản
văn hôm nay có thể chia thành hai phần:
1) Ở lại
trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (15,9-11);
2) Điều
răn của Đức Giêsu: hãy yêu thương nhau (15,12-17).
3.- Vài
điểm chú giải
- Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy (9): Dịch sát là “Như (kathôs) Cha đã yêu mến (êgapêsen)
Thầy, thì Thầy cũng yêu mến anh em (kagô
hymas êgapêsa)”. Kathôs ở mệnh đề
chính dùng với kai ở mệnh đề phụ thì
dịch là “Như... thì cũng...”. Egô là
chủ từ được nêu ra minh nhiên để nhấn mạnh, còn túc từ hymas được đặt liền với chủ từ cũng là để nhấn mạnh và cho thấy dây
liên kết mật thiết với chủ từ egô.
Hai động từ “yêu mến” (êgapêsen; êgapêsa) ở thì quá khứ aorist, diễn tả
những biến cố rõ rệt và cụ thể trong quá khứ (“Chúa Cha đã yêu mến Thầy”), bây
giờ chạm đến chúng ta (“Thầy cũng yêu mến anh em”).
- tình
thương của Thầy (9): Công thức này (hê agapê hê emê) nói về tình thương của
chủ thể (Đức Giêsu) đối với các môn đệ.
- như
Thầy đã giữ các... và ở lại... (10): Kathôs và kai đều bắt đầu hai mệnh đề phụ, nên chỉ có thể dịch là “như...
và...”. Động từ têreô ở thì quá khứ
hoàn thành (perfect), với ý là lúc này đây, Đức Giêsu đã giữ trọn các điều răn của Chúa Cha.
- vì bạn
hữu của mình (13): “Vì” (hyper) có nghĩa là “nhân danh”, “chiếu cố đến”. Cái chết của Đức
Giêsu nhằm mưu ích cho chúng ta. Xem Lc
22,19-20; Rm 8,31; 1 Cr 11,24.
- cắt cử (16): Động từ Hy Lạp tithêmi
có nghĩa là “đăt một người vào một nhiệm vụ”, đồng thời bảo đảm, cung
cấp cho người ấy mọi phương tiện để thi hành nhiệm vụ đó thật hữu hiệu (x. Cv 13,47; 20,28; 1 Cr 12,28; 2 Tm 1,11).
Động từ này ở thì quá khứ aorist, để nói rằng Đức Giêsu chỉ cắt đặt một lần mà
thôi, nhưng điều này có giá trị suốt đời người môn đệ.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Ở lại
trong tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha (9-11)
Đức Giêsu dùng
hình ảnh cây nho để mô tả tương quan của Người với các môn đệ, ngay khi Người
vắng mặt về thể lý. Người là cây nho “thật”, còn chúng ta là cành, mà cành thì
phải ở lại (menô) trên cây nho để
sinh hoa kết trái, hoa trái tình yêu (một trong những đề tài chính của Ga). Đức Giêsu đã lệ thuộc Cha của Người
trong mọi sự. Bây giờ Người cho chúng ta thấy rằng Cha của Người là nguồn mạch
của mọi tình yêu: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy, thì Thầy cũng đã yêu mến anh
em” (15,9). Hai động từ đều cùng ở một thì quá khứ (aorist) nói lên những biến
cố rõ rệt trong quá khứ: Đức Giêsu đã từ Chúa Cha mà đến thế gian. Người vẫn ở
an toàn trong tình yêu của Cha Người đến mức Người có thể cho thấy tình yêu của
Người đối với các môn đệ bằng cách rửa chân cho họ (x. 13,1-5). Tình yêu vâng
phục của Đức Giêsu với Cha Người chính là nền tảng và điển hình cao vời cho
cuộc sống người môn đệ.
Chúng ta phải “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu, cũng như Người “ở lại” trong
tình thương của Cha Người bằng nhiều cách. Chúng ta cũng có thể “ở lại” (menô) trong tình thương của Đức Giêsu
bằng cách để cho Người yêu thương ta, không đặt một trở ngại nào gây khó khăn
cho tình thương ấy. Chúng ta cũng có thể “ở lại” bằng cách tuân giữ các điều
răn của Cha Người, vì như thế là hài hòa các ý muốn (c. 10). Đề tài đã được đề
cập tới trước đây là “ở lại trong tình thương nhờ vâng phục [giữ các điều răn;
giữ lời]” (x. 14,15.21.23-24) nay tái xuất hiện và được liên kết với niềm vui. Đức
Giêsu giải thích tất cả những điều đó là để “niềm vui của Thầy ở trong anh em”
và “niềm vui của anh em được nên trọn vẹn” (c. 11). Trước đây Người đã bảo các
môn đệ rằng họ phải vui mừng vì Người đi về cùng Chúa Cha (14,28). Đề tài niềm
vui này sẽ còn được triển khai sau này (16,20-33).
Như thế, Đức Giêsu ở lại trong tình thương của Cha Người
bởi vì Người giữ điều răn của Người để chuyển tình thương sang cho các môn đệ.
Các môn đệ sẽ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu nếu họ giữ điều răn của
Người. Điều răn của Người cũng giống như điều răn của Cha Người: yêu thương như
anh em đã được yêu thương. Mục tiêu của mạc khải cao cả này là niềm vui. Niềm
vui của Đức Giêsu là tuôn đổ tình yêu Người đã nhận từ Chúa Cha vào lòng các
môn đệ. Vậy các môn đệ được chia sẻ không những tình yêu mà cả niềm vui của
người ban tặng tình yêu. Nhưng niềm vui của Đức Giêsu được Người thông ban chỉ
là một hương vị khởi đầu. Quy luật của sự hoàn tất cho thấy rằng bạn chỉ hiểu
điều bạn đã nhận khi bạn tặng nó đi. Như thế, các môn đệ sẽ nhận được niềm vui
trọn vẹn khi yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương họ. Đây chính là sự
sống vĩnh cửu: tương giao đón nhận và trao tặng tình yêu không ngừng.
* Điều răn của Đức
Giêsu: hãy yêu thương nhau (12-17)
Như Chúa
Cha đã yêu thương Đức Giêsu và Đức Giêsu đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải
ở lại trong tình thương của Người (c. 9). Như thế, Hội Thánh là một cộng
đồng yêu thương, tại đó người ta sống điều răn mới. Đức Giêsu đang nhắc lại cho
các môn đệ việc rửa chân: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em” (15,12 nhắc lại 13,34). Đức Giêsu bắt đầu nói
“các điều răn” y như thể có
nhiều điều răn (c. 10), rồi ngay
sau đó lại nói “Đây là điều răn
của Thầy”, y như thể chỉ có một điều
răn mà thôi. Vậy thì có bao nhiêu điều răn? Các vị thầy thời ấy bảo rằng có 613 điều răn. Các tác giả Mc, Mt
và Lc bảo là Đức Giêsu đã giảm thiểu
lại còn hai: tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người lân cận (Mc 12,28-31; Mt 22,36-40; Lc
10,25-27). Tác giả Ga thì khẳng định
là hai điều này đã được giản lược thành một: tình yêu đối với người lân cận
trong thực tế là cách thức duy nhất để bày tỏ tình yêu của chúng ta đối với
Thiên Chúa (Ga 4,20; x. Phaolô: Gl 5,14; Rm 13,8-10).
Thì quá khứ của “Thầy đã yêu thương anh em” (c. 9) phải
được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với nhau trong hiện tại. Hành vi
tiêu biểu của Đức Giêsu nhằm nói lên tình yêu của Người là chính lễ hy sinh của
Người, là hành vi hy sinh mạng sống “vì bạn hữu của mình”, “nhân danh bạn hữu
mình” (c. 13). Điều này đã được báo trước nơi việc người mục tử hiến mạng sống
vì đoàn chiên (10,11) và nay Người đang chuẩn bị cho họ đón nhận cái chết hy
sinh của Người. Nếu chúng ta yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương chúng
ta, thì chúng ta phải sẵn sàng thực hiện hành vi hy sinh tối hậu.
Khi nói
đến việc hy sinh tính mạng “vì bạn hữu của mình”, Đức Giêsu lại được đưa đến
chỗ gọi các môn đệ không phải là “tôi tớ”, nhưng là “bạn hữu” (philoi, c. 14). Chúng ta chứng tỏ chúng
ta là “bạn hữu” của Người do tình yêu của chúng ta đối với Người, khi tuân giữ điều
răn của Người (c. 14; x. 15,10). Dĩ nhiên không có gì sai trái khi làm “tôi tớ
của Thiên Chúa”. Nhiều ngôn sứ, tư tế và vua chúa vui mừng được gọi như thế (x.
Gs 24,29; Tv 89,20). Chính Đức Giêsu đã nhận lấy vai trò tôi tớ khi rửa chân
cho các môn đệ, nhưng trong tư cách là Thầy, Người chấp nhận họ như là các tôi
tớ (x. 13,13-16). Nhưng nay Người gọi họ là “bạn hữu”, như Môsê xưa kia là “bạn
hữu” của Thiên Chúa (x. Xh 33,11).
Vòng các “bạn hữu” thân tín của hoàng đế Rôma chính là các cố vấn của ông. Như
thế, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ yêu dấu của Người biết tất cả mọi sự (c. 15)
và muốn họ làm việc với Người để thực hiện chương trình của Người.
Các kinh sư thường không tìm môn sinh. Những người trẻ
nào muốn tìm một vị thầy thì rảo quanh, thăm viếng và chọn lấy vị thầy
nào họ muốn. Đức Giêsu thì không như thế, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng chính
Người đã chọn họ, và Người làm như thế vì nhắm một mục tiêu, đó là họ
“ra đi và sinh được hoa trái” (c. 16). Hoa trái này được nhắm “ở lại [= tồn
tại; menô)” và có kết quả do chỗ Chúa
Cha đáp lại những lời họ cầu xin (x. 14,13; 15,7). Thế rồi Người nhắc lại lệnh
truyền cuối cùng, “hãy yêu thương nhau” (c. 17).
+ Kết
luận
Lời cáo
biệt thường hàm chứa những lời nói hoặc những chỉ thị cuối cùng; chúng ta rất
trân trọng các lời này và cố gắng thực hiện. Đức Giêsu vừa ký thác bí mật cuối
cùng và quý báu nhất của trái tim Người; Người đã tâm sự về những điều thâm sâu
nhất, đã diễn tả ra các lời nhắc nhở cuối cùng. Dường như Người muốn để lại cho
các môn đệ di chúc thiêng liêng của Người. Điểm nổi bật là Người tha thiết nhấn
mạnh trên tình yêu đối với nhau. Các môn đệ của Đức Giêsu là các “bạn hữu” của
Người, được Người yêu thương cũng như Người được Cha của Người yêu thương, và
Người muốn họ trở thành một cộng đồng tình yêu, trong đó mỗi người yêu
thương nhau. Người không muốn các môn đệ chỉ biết loay hoay vun quén với nhau
và cho nhau, làm thành một thứ Hội Thánh ấm cúng đóng kín, nhưng muốn
chúng ta “ra đi và sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại”, vươn tới thế giới
chung quanh chúng ta.
Ở tại
trung tâm các lời này của Đức Giêsu, có sứ điệp liên hệ đến Chúa Cha. Khi các
môn đệ được gặp lại Đức Giêsu Phục Sinh, các ông sẽ trải nghiệm về Thiên Chúa
như là Cha và hiểu Người đã dành tất cả tình yêu và tất cả quyền năng của Người
cho Con của Người.
5.- Gợi
ý suy niệm
1. Những gì Đức Giêsu vẫn ao ước cho tới giờ này, là đưa
các môn đệ đến với Chúa Cha. Với cuộc Phục Sinh, công trình của Người đạt được
một phẩm chất mới: Người sẽ loan báo về Chúa Cha công khai cho các môn
đệ, chứ không che giấu nữa (16,25). Không phải là y như thể Người nói với họ về
Chúa Cha với các lời mạc khải mới; trái lại chính họ phải đạt tới một khái
niệm về Chúa Cha. Chúa Cha chính là nguồn mạch tình yêu từ đó Đức Giêsu đã phát
xuất ra và quy hướng về đó, Đức Giêsu dẫn chúng ta về. Chúng ta chỉ có thể về
tới đó nhờ giữ điều răn của Chúa Cha và cũng là điều răn của Đức Giêsu: yêu
thương nhau.
2. Từ “điều răn” được Đức Giêsu sử dụng 4 lần nhằm cho
thấy rằng “yêu thương” là một tuyệt đối, mà không ai được đặt thành vấn
đề nữa. Đây là thực tại chính yếu, đây là mối lo lắng cốt yếu, đây là điểm bận
tâm duy nhất của những ai tự hào mình thuộc về Đức Giêsu và đứng vào hàng ngũ
những kẻ thừa kế thiêng liêng của Người. Nếu Đức Giêsu nhấn mạnh như thế, phải
chăng là vì nguy hiểm, cũng là sự cám dỗ và sự sai lầm, chính yếu và thường
xuyên nhất, đã từng đe dọa các môn đệ xưa kia cũng như sẽ đe dọa mọi thế hệ môn
đệ tương lai, chính là tình trạng thiếu lòng yêu thương?
3. Chúng ta thường quá bận bịu với việc làm “tôi tớ”
Thiên Chúa, “làm việc cho Đức Giêsu”, mà quên rằng Người muốn chúng ta trở
thành “bạn hữu” của Người, muốn chúng ta yêu thương Người và được Người yêu
thương. Nếu hiểu rằng ta là những mắt xích trong sợi xích tình yêu, một dây
tương quan đi từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến với mỗi người, từ mỗi
người đến với người khác, thì chúng ta sẽ đi từ một cuộc sống khắc
khoải, cô lập, sang sự hiệp thông thánh thiêng. Khi đó, không cần phải nắm lấy,
hoặc sở hữu đời sống này, y như thể hòng có được một chút tiện nghi
thoải mái. Đời sống này dồi dào không mức độ. Thiên Chúa không cân đo Thánh
Thần. Sống trong vòng lưu chuyển yêu thương này, thì không còn tôi tớ không
biết đường lối của chủ, nhưng chỉ còn những người bạn an nhiên sống và hành xử
trong tình yêu của Chúa Cha.
4. Nói với những con người đang sống trong một cuộc
sống xô bồ, Đức Giêsu nhắc các bạn hữu Người nhớ lại một vài điểm căn
bản. Đừng nghĩ rằng họ đang dùng sức họ
để vào được một cuộc sống cao đẹp hơn, để mà tỏ ra ngạo mạn. Đừng nghĩ
rằng họ đang biết phấn đấu hết sức mình, để mà tự hào tự phụ. Thật ra, họ đã
được Chúa Cha và Đức Giêsu chọn làm một mắt xích trong chuỗi tình yêu.
Và Chúa Cha không yêu cầu người ta làm những chuyện họ không được chuẩn bị
trước. Nhưng cách chuẩn bị trước lại dường như không hào nhoáng gì đối với các
môn đệ: “ở lại trong Đức Giêsu”, “ở lại trong tình yêu của Người” và “yêu
thương nhau”. Chúng ta hãy để cho mình được bao trùm, được ấp ủ trong tình yêu
của Người; như thế là đừng từ chối những gì Người ban tặng cho ta. Đây là cách
quan trọng duy nhất để có thể ra đi và sinh được hoa trái.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm