ÁNH SÁNG CỦA THẬP GIÁ
(Gioan 12,20-33
– CN V MC - B)
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học
là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc
hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và
vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11)
chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân
Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người
(12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà
thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo
TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy
là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng
Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân
chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như
là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa
chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào
lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn
mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có
một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó,
cái Chết, cuộc Phục Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo
đuổi. Chỉ sau kinh nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của
cuộc khải hoàn của Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời
hoan hô của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các
ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy
hết!” (c. 19b). Ở đây, tác giả TM IV
vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài. Nỗi lo sợ của người
Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay
đến nhận định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho
các ông là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã
nói tiên tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là
Đức Giêsu phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn
để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh
cao trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu độ phổ quát, thậm
chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được thực hiện, ít nhất ở
dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là giờ của cuộc Thương Khó
đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người
và của các môn đệ ([“Đã đến giờ”],
12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”,
12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
- mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở c. 19 được ứng nghiệm tức khắc.
Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại (diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và
bị phân tán trong các vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt
bì, thuộc về hạng người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa duy nhất và tuân
giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch mà là để hành
hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
- Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với
Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên
Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là
người ngoại.
- Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21): dịch sát
là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với Người, để
biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
- Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh,
để Con Người được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng
là lúc kết án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
- tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự
tỏa rạng sự hiện diện của Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút,
của Hữu thể thần linh. Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính
khiêm hạ của mầu nhiệm Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang
này, cho dù các lời nói và các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu
tiên của vinh quang này (x. 2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang
này, lại vén mở cho thấy vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc
nhân loại bị phá vỡ, sự hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập
tất cả nhân tính của Ngôi Lời để làm cho nhân tính này sống lại và lên
trời.
- nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24): Câu này được
vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể
đây là một câu tục ngữ quen thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức
Giêsu: chỉ cái chết của Đức Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
- Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25): Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt 16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL áp dụng câu này cho những đau khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn
là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới
những đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
- Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26):
Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ
cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý
trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo
biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
- Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27): Tác giả TM IV
đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng đặt hoạt cảnh ấy
trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL,
khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a). “Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân,
là mạng sống; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công
nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy
khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
- Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28): x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất
trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh
Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
- có tiếng từ trời (28): Dân chúng không thể “nghe”
được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên thần.
Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm gương
cho họ.
- Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28): Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu
lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi
Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức
Giêsu.
- mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã biến
truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ công
khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
- Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31):
Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời
Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống
“thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian”
không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng
như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên
Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong
thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải
huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa
phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của
Đức Giêsu (14,30; 16,11).
- một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32):
Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là
việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ
tể của Người trên vũ trụ (x. Pl
2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh – được giương cao” của tác giả
được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người
Tôi Tớ của Đức Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước
các biến cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài
người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn thấy Người, nhưng là
để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20 dường như cho hiểu rằng
những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành trình thiêng liêng dài, và
bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem
không phải như du khách, mà là để cầu nguyện, để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra
điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với
Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn
đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với
Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những
người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông (cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và
phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê
đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn biết Đức Giêsu, đã đến với Người
và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến
với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta thấy được bổn phận họ phải chu toàn
trong đời sống: làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta
không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy Lạp đã gặp Đức Giêsu,
hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho thấy Đức Giêsu không
ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày nữa trước khi Người
chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người xác định tầm quan
trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và gửi đến dân Do Thái
lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy,
ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như có một ý nghĩa biểu
tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao
giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức Giêsu nhờ Tin Mừng được rao
giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức Giêsu và việc “gặp” Đức
Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lời rao giảng của các tông đồ, còn có cuộc
Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của Người (c. 23). Chỉ khi
đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù bè phái mới đổ hết.
Cũng chỉ khi đó mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính
vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga 20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có
được trước Phục Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh
cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón tiếp khải hoàn. Đức
Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người Do Thái khi Người
vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý tưởng lệch lạc đám
đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người (x. 12,12-16).
Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng, bổ túc cho
truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả lời gián
tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là nhờ cuộc
Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho họ gặp
được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và
của các môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu
23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì
đến những người ngoại kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay
không nữa. Ta gặp kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc
nào đó, bài tường thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của
Đức Giêsu và những suy tư của tác giả.
Sự xuất
hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ khiến Đức Giêsu hiểu
rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV
cho thấy đang đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của
“Con Người”, giờ Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người
được “tôn vinh” (x. 3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ
là kết quả của sự tàn bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục
của Đức Giêsu. “Giờ” của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái
chết của Người. Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng
Con Thiên Chúa được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải
qua thử thách nào và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết
của Người cho thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho
Chúa Cha và hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết
của Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành
động. Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh
ra gì cả nếu trước đó không có một cái chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị
hủy đi, nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái
chết và đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh
Người một đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất
khỏi loài người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông.
Người không ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với
Người không phải là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những
ai liên kết với Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ
kẻ nào đã theo Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có
phần phúc khi được Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong
các TMNL (chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn Ôliu.
Tuy nhiên, ngài đặt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích hoạt
cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao
xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống
mà người ta phải “ghét” và chịu mất để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi
đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng (tô
pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ
xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách
riêng. Câu hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đặt vào thế
lưỡng nan là xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh
Danh Cha”. Và Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu luôn “năng động [tích
cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai
trò Người đảm nhận, Người hoàn tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh
mạng sống để cứu độ toàn thể thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không
thể tưởng tượng ra một lời cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa
sai đến, ngoài lời này: “Xin tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ xảy ra vào
lúc ấy”)[1],
giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới, hẳn sẽ là phá hủy tất cả
tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa Con đã nhận lấy nơi mình
cuộc sống trần thế với tất cả chiều sâu của nó và đặc tính bi thảm của nó, để
sống trọn cuộc sống này cho tới chết, không phải cho bản thân Người mà là cho
những người khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này, Người đã tôn vinh Chúa
Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối cùng được bày tỏ trọn
vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc Phục Sinh của Con Cha sẽ
thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước cái chết, Đức Giêsu quay
ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc
14,32-42). Người ý thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế
mà Người đi đến đó hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng
sợ hãi tránh né cái chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình.
Vì Người có sự nhạy cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho
Người bước đường này. Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình,
Người muốn tuân theo sự hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha,
xin tôn vinh Danh Cha” (c. 28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh
của Người, như Thiên Chúa đã thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu
của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm
ở trong tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con
người, nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không
thua Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở
nên hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống
Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng
vĩnh viễn của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị
trí quyền lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi
Thiên Chúa, làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái
chết của Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối
với loài người và về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên
Chúa. Như thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức
Giêsu cũng khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân
loại. Được giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên
Chúa (x. 3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của
Người, Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng
của Người. Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những
người muốn gặp Người.
+Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức
Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ”
này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người
thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống
của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi đó sẽ xảy ra giữa loài người một cuộc
“tách biệt” (krima) do người ta tin
hay không tin vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chọn lựa
này đảm bảo cho một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi
kéo án phạt và cái chết đến cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm
trung gian giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã
phải gặp Đức Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những
tương quan giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp
Philípphê, có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có
thể mạnh dạn đi gặp Đức Giêsu...
2. Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người
ngoại ước muốn biết Đức Giêsu. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không
có một môn đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về
họ.
3. Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân
ban nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những
ai đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau
này trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau
này chúng ta mới mong được thông phần
gia nghiệp với Người.
4. Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi
người (1,9). Khi Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát
ra ánh sáng chói chan huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật
nhất: Thiên Chúa trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến
mình không dè giữ và trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua
trong quyền lực của nó. Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống
chúng ta như là con đường bước theo Đức Kitô.
5. Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác,
cũng phải chấp nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô
hữu đều được kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không
thể tránh giết chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ
chính mình); đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan
(= niềm vui thiêng liêng).
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm