HAI DỤ NGÔN VỀ
NƯỚC THIÊN CHÚA
(Máccô 4,26-34 – CN XI TN - B)
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô liên tục nhắc lại rằng Đức Giêsu giảng dạy, nhưng không bao giờ ghi lại
nội dung cả (x. 1,21; 2,13; 6,2.6.34; 10,1). Ngoại trừ bài Diễn từ cánh chung
(ch. 13), các giáo huấn được triển khai nhất của Đức Giêsu nằm trong Mc 4, có thể được gọi là “Chương các dụ
ngôn (ba dụ ngôn)” (4,1-34). Chương này gồm có hai phân đoạn lớn và ba phân
đoạn nhỏ :
*
Mở (cc. 1-2);
1)
Dụ ngôn Người gieo giống (cc. 3-9);
a-
Mục đích của các dụ ngôn (cc. [10]11-12);
*
Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (cc. 13-20);
b-
Hình ảnh Cái đèn và cái đấu: trách nhiệm
(cc. 21-25);
2) Dụ ngôn Hạt giống tự mọc lên (cc. 26-29) và Hạt cải (cc.
30-32);
c- Kết luận về các dụ ngôn (cc. 33-34).
Đây là cách hành văn quen thuộc của Mc: ghép các phần
của các bài tường thuật vào nhau để cho các bài soi sáng lẫn nhau.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia
thành ba phần:
1) Dụ ngôn Hạt giống tự
mọc lên (4,26-29);
2) Dụ ngôn Hạt cải
(4,30-32);
3) Kết luận về các dụ
ngôn (4,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Chuyện Nước Thiên
Chúa cũng tựa như chuyện một người (26): dịch sát “Nước Thiên Chúa tựa như
một người”. Trong lối diễn tả của các kinh sư, dụ ngôn không ví Nước Thiên Chúa
với một người; dụ ngôn chỉ muốn minh hoạ một sự thật liên quan đến Nước Thiên
Chúa nhờ một câu truyện trong đó người ấy có một vai trò. Trong những ví dụ
thuộc loại này, thường thường chính phần cuối mới cung cấp một hình ảnh trực
tiếp hoặc gián tiếp gợi đến Nước Thiên Chúa. Trong bài dụ ngôn Mc, sự
việc Nước Thiên Chúa đến thì tựa như những gì xảy ra vào lúc thu hoạch (c. 29).
- một người: Không nhất thiết phải
đồng hoá người gieo giống với Đức Giêsu, bởi vì từ ngữ này được dùng rất tổng
quát (không như bản văn Mt).
- Đêm hay ngày: Đêm đi trước ngày bởi
vì ngày được coi như bắt đầu với lúc mặt
trời lặn.
- bằng cách nào thì
người ấy không biết: Tiến trình theo đó hạt giống mọc lên có một quy
luật bên trong nó; người gieo giống không phân tích tiến trình này, mà ông có
băn khoăn về tiến trình này cũng không lợi ích gì.
- Đất tự động (HL.
automatê) (28): Từ này mô tả một sự tăng trưởng tiệm tiến của hạt giống
trước mùa gặt. Trong ngữ cảnh là sự so sánh với Nước Thiên Chúa, tác giả nhấn
mạnh trên hoạt động ẩn giấu và tiệm tiến của Nước Thiên Chúa hầu đưa hạt giống
đến chỗ tăng trưởng hoàn toàn.
- Lúa vừa chín (29): Trong giai đoạn
tăng trưởng, người nông phu không phải làm gì trên cánh đồng cả; mọi sự tiến
hành không cần ông. Nhưng hoàn cảnh thay đổi đột ngột với c. 29 (x. liên từ dé
[= “nhưng”; “khi”] và trạng từ Hy Lạp euthys [= “tức khắc”]). Sau một
thời gian không làm gì cả (những câu trước), người nông phu can thiệp không
chút chậm trễ vào lúc thu hoạch. Bây giờ bản văn hoàn toàn chú ý đến người nông
phu, đến sự thay đổi thình lình trong lối xử sự của ông.
- đem liềm hái ra gặt: Đây là câu trích mặc
nhiên Giôen 4,13: “Các ngươi hãy tra
liềm vào, vì đã tới mùa lúa chín”. Vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét mà Thiên
Chúa sắp thực hiện trong cánh đồng Giôsaphát để chống các dân tộc ngoại giáo (Ge 4,12-16). Sách Khải huyền cũng ám chỉ đến biến cố này (Kh 14,14-16).
- hạt cải (31):
Tục ngữ xứ Paléttina coi đây là hạt giống nhỏ nhất. Để nói một vết máu thật
nhỏ, các kinh sư nói: “Không lớn hơn một hạt cải”. Điểm nhắm là một hạt giống
nhỏ nhất và một cây thật to. Cách sử dụng thì (tense) hỗ trợ cho sự tương phản
này: tác giả nói đến việc gieo hạt ở thì quá khứ aorist (“một khi người đã được
gieo”, cc. 31 và 32) và nói đến sự tăng trưởng ở thì hiện tại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Hạt giống tự
mọc lên (26-29)
Sẽ đến ngày Thiên Chúa can thiệp dứt khoát vào lịch sử nhân
loại. Trước đó, có một thời gian Thiên Chúa để cho mọi sự cứ đi theo dòng của
chúng, khiến ta có thể nghĩ rằng Ngài không quan tâm gì đến thế giới (x. sự ngạc
nhiên của Gioan Tẩy Giả: Mt 11,2-6).
Đức Giêsu loan báo rằng Nước Thiên Chúa đã gần kề. Thế mà mọi người đều biết
rằng sự thiết lập Nước Thiên Chúa được khởi đầu bằng việc phán xét để tiễu trừ
khỏi dân Israel tất cả những kẻ tội lỗi, không xứng
đáng được tham dự vào ân huệ của Nước Thiên Chúa. Vậy, nếu Thiên Chúa đã thực
sự quyết định thiết lập Vương quyền của Ngài trên mặt đất, tại sao ta chưa thấy
một dấu gì cho biết là cuộc phán xét khủng khiếp ấy đã đến?
Để trả lời, Đức Giêsu dùng một dụ ngôn để ví: Hạt giống là
Lời. Hạt giống mang trong mình một sức mạnh vô phương
kháng cự. Một khi đã được gieo, hạt giống-Lời đi sâu vào trong các tâm trí và
con tim và biến đổi những ai nghe Lời. Hoa trái không lệ thuộc người gieo
giống, người rao giảng, nhưng lệ thuộc vào sức mạnh mà hạt giống có trong mình.
Không ai có thể kéo một cây con để làm cho nó mọc nhanh hơn được! Dụ ngôn dạy
chúng ta đặt tin tưởng nơi lời Tin Mừng. Làm cho hạt giống-Lời lớn lên: đây
không phải là công việc của chúng ta. Chúng ta chỉ có một việc phải làm đó là
gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta. Rồi sẽ đến lúc thu hoạch. Đức
Giêsu cho các thính giả hiểu rằng thời gian Người hoạt động ở
trần gian chính là giai đoạn cuối cùng của Lịch sử cứu độ, đi sát ngay trước
cuộc can thiệp chung cuôc của Thiên Chúa. Ai có bổn phận cộng tác với Người để gieo hạt giống-Lời,
hãy kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng tất cả mọi người đều đón nhận Lời, hãy làm sao để
hạt giống có thể thật sự mọc lên và sinh hoa trái.
* Dụ ngôn Hạt cải
(30-32)
Một cây cho chim trời trú ngụ rất thường được dùng để nói về một vị
vua biết dùng quyền lực mà che chở thuộc hạ (x. Đn 4,9.18; Ed 31,5…).
Nhưng một đoạn như Ed 17,22-23 thì
lại nhấn mạnh trên sự phồn vinh xảy ra với Nước Thiên Chúa vào thời tận thế.
Đây cũng là ý nhắm của dụ ngôn Tin Mừng: hình ảnh một cây che chở chim trời báo
trước tình trạng sự việc vào lúc Thiên Chúa thiết lập Vương quyền của Ngài trên
mặt đất.
Vào lúc tiến trình đưa tới việc thiết lập Nước Thiên Chúa bắt
đầu diễn tiến (sứ vụ của Đức Giêsu), người ta nghĩ đây là một biến cố không
đáng kể. Nhưng cũng như hạt cải nhỏ bé hứa hẹn một cây lớn, sứ mạng của
Đức Giêsu đúng là chặng đầu tiên của sự can thiệp của Thiên Chúa nhằm thiết lập
Triều Đại của Người. Vậy nhận biết ý nghĩa đích thực của sứ mạng của Đức Giêsu,
chính là hiểu rằng thái độ phải có trước sứ mạng này là chấp nhận hoặc từ khước
quyền chủ tể cánh chung của Thiên Chúa. Chính thái độ này sẽ xác định vận mệnh của mỗi người trong thế giới bên kia.
* Kết luận về các dụ
ngôn (33-34)
Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh tầm quan trọng quyết định của
thời gian hiện tại đối với các thính giả của Đức Giêsu. Hai dụ ngôn này mời gọi
nhận biết sứ mạng của Đức Giêsu chính là khởi đầu cuộc can thiệp cánh chung của
Thiên Chúa. Áp dụng giáo huấn vào trong đời sống Giáo Hội, thời gian hiện tại
không còn phải là thời gian của sứ vụ của Đức Giêsu, nhưng là thời gian của nếp
sống và hoạt động rao giảng của Giáo Hội.
+ Kết luận
Thoạt nhìn, chúng ta
thấy kết luận của diễn từ các dụ ngôn không có vấn đề. Đức Giêsu loan báo Lời
Thiên Chúa cho người ta (“đám đông” ; x. 4,1-2). Người diễn tả bằng các dụ
ngôn theo mức độ hiểu biết của họ. Dường như đối với Đức Giêsu, các dụ ngôn là
một phương tiện để giúp các thính giả hiểu Người dễ dàng hơn. Ngoài ra, Người
còn cung cấp các giải thích bổ sung cho nhóm môn đệ (c. 10). Mọi sự không rõ
ràng rồi hay sao?
Vấn đề chỉ xuất hiện rõ ràng khi ta lưu ý rằng tác giả Mc
đã muốn kết thúc với đề tài ngài đã đưa vào ở trên (cc. 10-12). Đối với công
chúng, “những kẻ ở ngoài” (c. 11), Đức Giêsu “không bao giờ rao giảng mà không
dùng dụ ngôn” (c. 34); “với những người kia…, cái gì cũng phải dùng dụ ngôn”
(c. 11). “Nhưng khi chỉ có riêng thầy trò với nhau” (Hl. kat’ idian, c.
34), “khi còn một mình” (HL. kata monas, c. 10), Đức Giêsu “giải đáp”
tất cả cho các môn đệ (c. 34), nghĩa là “những kẻ đang ngồi quanh Người cùng
với Nhóm Mười Hai” (c. 10), là những kẻ mà “mầu nhiệm nước Thiên Chúa đã được
ban cho” (c. 11).
Vậy, các dụ ngôn là một thứ ẩn ngữ, mà chỉ các môn đệ mới
có chìa khóa để hiểu được, còn đám đông, mà Đức Giêsu không muốn nói với họ
bằng một ngôn ngữ rõ ràng, thì vẫn không thể nắm bắt được ý nghĩa đích thực của
giáo huấn của Người: “Mầu nhiệm Nước Thiên Chúa” không được ban cho “những kẻ ở
ngoài”; chính vì thế mà Đức Giêsu “không
nói gì mà không dùng dụ ngôn”.
Đây chính là “thuyết các dụ ngôn” trong TM Mc
(J. Dupont), mà thật ra, đây cũng chỉ là một phương diện đặc biệt của “thuyết
về bí mật thiên sai” của tác giả. Vào lúc tác giả soạn TM I, có một sự kiện không thể phủ nhận, nhưng thật gai chướng: dân
tộc Do Thái nói chung đã không đón nhận Tin Mừng. Phải chăng kế hoạch của Thiên
Chúa đã thất bại? Hay là phải nhìn nhận rằng sứ mạng của Đức Giêsu không đến từ
Thiên Chúa? Tác giả Mc tìm ra được câu trả lời thần học trong bản văn Is 6,9-10 (x. Mc 4,12). Trong sứ mạng của Đức Giêsu, đã được ứng nghiệm lệnh
truyền của Thiên Chúa qua miệng của vị ngôn sứ, là phải nói với dân cách nào để
“họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu…”.
Vậy, vị sứ giả của Thiên Chúa phải diễn tả cách nào để
người ta không hiểu được: đó đã là quyết định của Thiên Chúa mà! Người đã muốn
làm cho sứ mạng của vị sứ giả trở thành một phán quyết chống lại một dân mù
quáng và cứng lòng. Nhưng làm thế nào nhận ra sấm ngôn ấy là chương trình hoạt
động của Đức Giêsu? Tác giả Mc tìm ra được đáp số nơi việc Đức Giêsu sử
dụng các dụ ngôn: Người nói bằng dụ ngôn cho đám đông hoặc cho các đối thủ, vì
Người không buộc phải làm cho họ hiểu Người. Dưới mắt Mc, dụ ngôn là như
một phương tiện không phải để làm cho một giáo huấn nên dễ hiểu hơn, nhưng để
che đậy ý nghĩa của giáo huấn này dưới những hình ảnh. Để người ta hiểu, thì
cần có một lời giải thích; nhưng lời giải thích chỉ được ban cho các môn đệ mà
thôi. Tuy nhiên, tác giả đã nhận ra ngay nguy cơ là thuyết này có thể đưa tới
chủ trương bí truyền (esoterism); vì thế, ở 4,21-25, ngài mới xác định
rằng các môn đệ đã nhận được mạc khải là để đi phổ biến rộng rãi, để đi hô to
trên mái nhà.
Chúng ta có thể nhận định rằng thuyết của Mc về các
dụ ngôn là một thuyết khá giả tạo. Nhưng để đánh giá đúng đắn, cần đo lường
được mức độ nghiêm trọng của vấn đề đang được hoàn cảnh cụ thể đặt ra cho tác
giả và cho Hội Thánh thời ngài: đoàn dân đông đảo được Thiên Chúa tuyển chọn đã
không tin vào Đức Giêsu và đã không chấp nhận sứ điệp của Người. Bản văn Is 6,9-10 cho thấy là Thiên Chúa đã thấy
trước (quan phòng) tình trạng sự việc như thế.
Rõ ràng công việc soạn thảo TM Mc mang dấu ấn
của các hoàn cảnh và các vấn đề thời tác giả. Ngài đã nghĩ tới việc rao giảng
khi kể lại dụ ngôn trong đó Lời Chúa được hình dung như một hạt giống. Ngài
cũng đang cố gắng tìm một giải thích thần học cho thất bại của sứ vụ này, bằng
thuyết về giáo huấn bằng dụ ngôn. Chứng nhân của Lời Chúa không phải là người
chỉ biết bằng lòng với việc lập lại máy móc Lời Chúa, nhưng là người biết tìm
nơi Lời Chúa câu trả lời cho những nhu cầu của những con người thời mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cả ba dụ ngôn (Người
gieo giống, Hạt giống tự mọc lên, và Hạt cải) có điểm chung là không truyền đạt
những giáo huấn đặc biệt, nhưng chỉ bàn về việc lấy lập trường trước lối
hành động của Đức Giêsu. Dường như thực tại thấy được (sự từ chối, sự vắng mặt
của Thiên Chúa, những khởi đầu không sáng sủa mấy) thì mâu thuẫn với sứ điệp và
uy thế Mêsia của Người. Do đó, ba dụ ngôn đều mời gọi sống đức tin. Qua các dụ
ngôn, chúng ta hiểu rằng Triều Đại Thiên Chúa không những đến chắc chắn, mà bây
giờ trong hiện tại, ta đã có thể cảm nghiệm sức mạnh cứu độ của Triều Đại này.
Tuy nhiên, chỉ người nào biết nhìn các sự việc với con mắt đức tin mới nhận ra
được sức mạnh này.
2. Chắc chắn Đức Giêsu không dạy nhà nông cách trồng trọt. Với lại
chẳng ai lại đi vãi hạt giống lung tung, rồi bỏ mặc đó, một thời
gian sau quay lại hái hoa hay nhổ rau về dùng. Sau khi gieo trồng,
phải làm cỏ, tưới nước, bón phân, cắt tỉa… rồi nếu may mắn, chúng ta sẽ thu
hoạch vụ mùa. Nhưng Đức Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc trong đời sống của những
kẻ đang nghe Người giảng, và khởi đi từ đó, điều chỉnh, thêm thắt nhằm chuyển
tải những chi tiết Người muốn trình bày. Đó chẳng phải là cách gieo trồng sao?
Nó được vẽ dựa trên kinh nghiệm hàng ngày của những người đang nghe Người
giảng, và Người nói với họ: “Hãy mường tượng thế này…”.
Dụ ngôn nói đến kinh nghiệm của chính chúng ta
và mời gọi chúng ta mở mắt để thấy Thiên Chúa đang
hoạt động và hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Phải chăng các
môn đệ hiện đại như chúng ta chưa từng có kinh nghiệm này: nhiều lúc chúng ta
chẳng làm gì nhiều nhưng lại nhận được mùa gặt bội thu? Những nhà giảng thuyết
thường chia sẻ kinh nghiệm: những gì họ nói cách đó rất lâu đã đụng chạm sâu
sắc và cuộc đời người nào đó đã được biến đổi. Những người trưởng thành thường
nói: “cha tôi, mẹ tôi từng nói rằng….,” và trích lại những gì họ đã được nghe
từ cha mẹ khi họ còn nhỏ, và nay vẫn còn ảnh hưởng đến lối nghĩ và cách thức
hành động của họ. Trong tâm trí các giáo viên, có thể một hành vi nào đó họ đã
thực hiện xem ra không có ý nghĩa gì, vào một ngày lên lớp nào đó, nhưng hạt
giống đã được gieo và một ngày kia sinh nhiều bông hạt.
3. Như tác giả Mc,
thừa tác viên Lời Chúa cần phải tìm cho ra sứ điệp được gửi đến cho dân
Thiên Chúa hôm nay từ bản văn Kinh Thánh. Đó chính là sống và thi hành chức
năng ngôn sứ, bởi vì ngôn sứ chính là người thay mặt Thiên Chúa mà truyền đạt
cho dân Ngài biết thánh ý Ngài đối với dân trong hoàn cảnh hiện tại.
4. Khi thấy rằng tình
yêu, sự kính trọng đối với các quyền của con người và sự tự do, sự tha thứ,
không đưa tới những kết quả mong muốn, có những Kitô hữu đã bị cám dỗ thúc bách
Triều Đại Thiên Chúa đến cho nhanh bằng cách sử dụng những phương tiện Đức
Giêsu đã cấm, như vũ lực, mưu mô, gian dối… Đức Giêsu dạy chúng ta tin tưởng
vào sức mạnh của Lời Tin Mừng.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm