1.TIN MỪNG : Mc 5,21-43
(21) Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám
rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một
ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống
dưới chân Người, (23) và khẩn khoản nài xin : “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin
Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền
ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia
bị băng huyết đã mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã
nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác.
(27) Được nghe đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người,
và sờ vào áo của Người, (28) vì bà tự nhủ : “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi,
là sẽ được cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được
khỏi bệnh. (30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình
phát ra. Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi : “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31)
Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai
đã sờ vào Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33)
Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục
trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này
con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35)
Đức Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo:
“Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được
câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37)
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là
ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta
khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và
khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người.
Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với
Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói : “Ta-li-tha kum”,
nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé
đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc
sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo
họ cho con bé ăn.
2.Ý CHÍNH :
Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm
tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ
nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu
nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài người
khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng ơn
cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ THÍCH :
-C 21-24 : +
Bờ Biển Hồ : Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay
Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình
bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ
như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt
biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các
bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21;
15,32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc
phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các
hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt
4,23; Lc 4,31-37.44). + Ông ta
sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ
sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của
ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó
được cứu thoát và được sống” : Đặt tay là khẳng định mối liên hệ
chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên
bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ
cho các tín hữu.
-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người
phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai
để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27). + Bà lách qua đám
đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ
vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền
năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần Đức
Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
-C 29-31: +
Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho
thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm
hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”:
Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền
năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của
Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ
đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C 32-34 : + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã
xảy đến cho mình : Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là
chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục
trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người : Đức tin của người đàn
bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm
sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến
phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã
cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” : Đức Giêsu
cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông
vào Người, chứ không phải cái áo Người đang mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37 : + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi
nữa ? : Qua câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu
có thể phục sinh kẻ chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia.
+ “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe
báo tin con gái ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức
Giêsu đã khích lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu
này, Đức Giêsu muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã
nói : “Cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). + Người
không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông
Gio-an : Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố
quan trọng (x. Mc 5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng
Đức Giêsu cũng cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế
biết (x. Ga 19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba
người mới có giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).
-C 38-40 : + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?” : Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc
mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng
người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! : Trong
Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ” (x.
1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong
Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói :
“La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô
bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp
cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người, nhưng
Người bắt họ ra ngoài : Sự kiện này cho thấy : Những người không tin và
chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói :
“Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước mặt
con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào
nơi nó đang nằm : Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn đệ
là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được Người
cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để nên
dư dật !”.
-C 41-43 : + “Này bé, Thầy truyền cho con : Chỗi dậy
đi !”: Cũng như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời
là mọi sự xuất hiện (x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là
em bé kia lập tức sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người
sống lẫn kẻ chết (x. Mt 28,18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để
một ai biết việc ấy : Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này
là để tránh sự bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái
quốc cực đoan về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống
lại, ba môn đệ này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU HỎI : 1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã
làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian
giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của
ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay của
Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê cấm
đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật cấm để
đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông : ”Ai đã
sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức Giêsu hỏi
đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai thú nhận
mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính Người chứ
không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức Giêsu đã
nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào được chứng
kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo Chúa trong
những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu nào diễn tả
sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không cho
những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người làm
? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm Môn đệ
nói ra phép lạ này ?
1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta : “Lòng tin của con đã cứu con.
Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Đức Tin vâng
phục của tổ phụ Áp-ra-ham:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp được Đức Chúa và được
Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát
biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của
những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu gương tin cậy vâng phục Đức
Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa ban cho một đứa con trai đặt
tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi, Đức Chúa một lần nữa đã thử
thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem đứa con trai duy nhất đi sát
tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín
thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên
núi cao và lập một bàn thờ để giết con làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo
như phong tục của chư dân thời bấy giờ. Thấy rõ đức tin tuyệt đối của
Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến ngăn tay ông lại và thay vì dâng con
trai, ông được Chúa cho thế bằng một con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi
sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng
Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như
sao trời cát biển như hiện nay (St 22,1-18).
2. HÃY TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên đang đi
bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên mặt cát
ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại, chàng thanh
niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của hai thầy
trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là hai dấu
chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải đi một
mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu chân đó
là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của Chúa. Nhưng
chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc Chúa đi một
mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con, trong những
lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là lúc Thầy phải bồng
ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3.THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ biết
xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức tin
mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa không
? Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Tầm quan trọng
của Đức Tin để được ơn Chúa chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại hai phép lạ nói lên tầm
quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười
hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su, nên
cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là một bé gái mới chết đang nằm trên
giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường Gia-ia mời đến nhà
để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé đã chết, nhưng nhờ
vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Ông trưởng hội
đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến nhà. Cuối cùng nhờ vững
tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà đứa bé gái con ông đã được Người
truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi
dậy đi !” (Mc 5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin của người phụ nữ bị
bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia là điều tối cần để
nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin
của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn
huyết là một chứng bệnh nhơ uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế
về mặt thể lý mà còn coi bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa.
Cho nên Luật Mô-sê cấm những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người
ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay không
dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết bà mắc
chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà định tâm
sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người thôi là bà
sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh. Nhưng Người
muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy giờ Người liền
quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn đệ thưa: “Thầy
coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào Tôi ?”. Đức
Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ phát run lên, vì
biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết
sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu
chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin
của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do
thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con
gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh cho
con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe tin con
gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được nghe lời Đức
Giêsu động viên: "Đừng sợ, cứ tin". Ông đã tin vào lời Chúa, và cuối
cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời truyền phán của
Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc 5,41). Chính nhờ ông
Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su, mà đứa con
gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức
tin trong cuộc sống hôm nay:
- “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con
chết mất!” (Mt 8,25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt
trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên của
Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với những
vấn đề vượt quá sức tự nhiên của mình. Như
các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên trong tâm
hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng
con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu kém của chúng
ta: “Sao nhát thế ? Làm sao anh em vẫn chưa
có lòng tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ cũng sẽ thương ra tay
thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì đối với Thiên Chúa,
không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
- “Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà
cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin
gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an
ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu
ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý
chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy
nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành,
phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho
những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
- “Đừng theo
ý con một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người
để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập
giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý
riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su:
“Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo kinh
Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa Bình
của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự
Chúa trong mọi người…”.
- Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng
tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ
khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7); Trong phép lạ về
nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2
con cá" (Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào
mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40);
Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả
năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy
thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
- Tất cả đều
là hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng
ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta
cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra
sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng
ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện
và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi
miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa
được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm
xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người
phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH - HHTM