1.-
Ngữ cảnh
Ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả Máccô cho
thấy Đức Giêsu hành động với uy quyền trước toàn dân (1,16–3,12). Nhưng sau đó,
những trở ngại đã xuất hiện: thân nhân Người đi bắt Người về, vì cho rằng Người
đã mất trí (3,21); các kinh sư thì nói rằng Người bị quỷ vương Bêendêbun ám và
dùng quyền của nó mà trừ quỷ (3,22); bằng kiểu diễn tả bóng bảy, Người đã nói đến sự cứng lòng của dân Israel
(4,11-12); trận bão trên biển không nhận chìm được con thuyền của Người, là một
hình ảnh cho hiểu là sứ vụ của Người sẽ gặp nhiều khó khăn (4,35t), nhưng
vẫn đứng vững; yêu cầu của dân Ghêrasa cũng ở trong chiều hướng ấy (5,17). Bài
tường thuật chuyến về thăm Nadarét cũng nói đến thái độ không tin của người dân
Nadarét, khiến họ không chấp nhận Đức Giêsu (6,1-6). Như thế, truyện này tóm
tắt một vài đề tài đã được triển khai trong các phân đoạn trước: tư cách môn đệ
và lòng tin, Đức Giêsu là thầy và là vị làm phép lạ, sự hiểu lầm và sự loại trừ
Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành bốn phần:
1) Đức
Giêsu về quê và giảng dạy ngày sa-bát (cc.1-2a);
2)
Các thính giả vấp phạm về Người (cc. 2b-3);
3) Sự
cứng lòng tin: đánh giá và kết quả (cc. 4-6a);
4) Đức
Giêsu tiếp tục ra đi (c. 6b).
3.-
Vài điểm chú giải
- quê quán của Người (1): Đây là Nadarét thuộc miền
Galilê (1,9), cách hồ Ghênêsarét khoảng 30 cs về phía tây. Vào thời đó, Nadarét
chỉ là một làng nhỏ, không quan trọng gì (x. Ga 1,46). Trong Cựu Ước,
làng này không bao giờ được nói đến. Vì làng ở độ cao 300-400m trên mặt biển,
người ta có thể nhận ra làng từ xa.
- có các môn đệ đi theo (1): Khi nói đến các môn đệ,
tác giả Máccô luôn luôn đưa vào đề
tài “đi theo” (sequela) (x. 2,15; 10,32; 15,41).
- bắt đầu giảng dạy (2) : Ta nhớ lại đoạn 1,21-28
giới thiệu Đức Giêsu là thầy và là người chữa bệnh. Phản ứng đầu tiên trước sự
khôn ngoan và những việc lẫy lừng của Người là sự ngạc nhiên. Từ đó, câu hỏi
đặt ra “Bởi đâu ông ta được như thế ?” mang tính mỉa mai: trong khi những người
đồng hương gắng tìm cho ra danh tánh của con người Giêsu, thì quyền lực của
Người lại bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
- nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên (2): Phản ứng này thường xảy ra trước lời giảng dạy (1,22;
11,18), một phép lạ (7,37) hoặc một câu nói lạ lùng của Đức Giêsu (10,26).
Tác giả nhắc đến phản ứng này với nhận định về sự khôn ngoan của Đức Giêsu để
cho thấy Người vừa ban một mạc
khải, nhưng dân chúng không tin.
- bác thợ (3) : Từ Hy Lạp tektôn (La-tinh faber)
có lẽ phản ánh từ A-ram naggârâ có thể là một người thợ đóng đồ mộc hoặc
là một người thợ xây dựng. Những người thợ ấy thường đi đây đó. Phải chăng Đức
Giêsu cũng đã đi đây đó, ít sống tại Nadarét? Bản văn dùng mạo tự xác định ho
cho hiểu rằng dân Nadarét đã quen gọi Đức Giêsu như thế.
- con bà Maria (3): Phải
chăng câu này cho phép giả thiết là Giuse đã qua đời? Trong ngữ cảnh ở đây,
không có gì bảo đảm là kiểu gọi này có ý nói là Giuse đã chết cả. Chúng ta ghi
nhận là trong TM Máccô, Giuse không
bao giờ được nêu tên. Dù sao, “con bà Maria” đã trở thành tên gọi của Đức
Giêsu. Hoặc tên này được dùng để sỉ nhục, bởi vì người Do Thái được gọi bằng
tên của người cha, hoặc để mỉa mai vì muốn ám chỉ đến một cuộc chào đời
bất hợp pháp (con hoang). Nếu trường hợp sau là đúng, thì lời sỉ nhục này lại
là một khẳng định về cuộc sinh hạ trinh khiết. Để ủng hộ cho cách giải
thích này, người ta nêu ra câu hỏi của dân Nadarét về nguồn gốc của Đức Giêsu và
sự kiện Mc tránh nhắc đến người cha.
- ngôn
sứ có bị rẻ rúng (4): Có lẽ đây là một câu tục ngữ phát xuất từ Do
Thái giáo nhằm diễn tả kinh nghiệm của các nhà du thuyết Do Thái. Ta có những
câu Hy Lạp tương tự: “Các triết gia khó sống tại quê hương” (Điônê Crisostômô;
x. Epittêtô…). Nhưng ở đây Mc mở rộng
câu ngạn ngữ mà áp dụng cho cả gia đình dòng họ; như thế là nối dài chiều hướng
của sự cố được kể ở 3,20t.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu về quê và giảng
dạy ngày sa-bát (1-2a)
Đức
Giêsu đã rời nhà và vùng ông Gia-ia ở để về quê, tức là Nadarét. Nhân dịp cử
hành phụng tự tại hội đường vào ngày sa-bát, Người đã giảng một bài. Đó
là việc Người vẫn thường làm (x. 1,21.39).
* Các thính giả vấp phạm về
Người (2b-3)
Phản
ứng của các thính giả chứng tỏ Đức Giêsu vừa ban một mạc khải. Họ đã nêu
ra năm câu hỏi: ba câu liên hệ đến hoạt động của Đức Giêsu (bản thân; giáo lý;
các phép lạ) và hai câu liên hệ đến gia đình dòng họ của Người. Chỉ đức tin mới
nhận biết nguồn gốc đích thực của Đức Giêsu. Người là Con Thiên Chúa. Đối với
những người đồng hương, sự hiểu biết về môi trường sinh sống của Đức Giêsu là
biến thành một trở ngại không thể vượt qua. Họ từ khước Đức Giêsu và
không chấp nhận giáo huấn của Người. Sự vấp phạm đó chính là sự cứng lòng tin
của họ.
* Sự cứng lòng tin: đánh giá
và kết quả (4-6a)
Đức
Giêsu xác định lập trường bằng một câu ngạn ngữ. Câu này vừa giúp Người
biện minh cho mình vừa giảm nhẹ tầm mức của các sự kiện. Các môn đệ (theo Mc, các ông lúc nào cũng đi theo Người)
phải học lấy bài học kinh nghiệm này: không bao giờ được để cho nỗi thất vọng
vì bị từ khước đánh ngã mình. Con Thiên Chúa bị mọi người kể cả gia đình, hiểu
lầm, và bị bỏ cô đơn trong thế gian này. Sự kiện Người không thể làm được phép
lạ nào ở quê hương cho thấy tương quan giữa phép lạ và đức tin. Điều này không
có nghĩa là quyền lực của Đức Giêsu bị hạn chế nhưng có nghĩa là khi ơn cứu độ được
ban tặng trong phép lạ bị từ chối, thì không thể xảy ra phép lạ được. Nếu Đức
Giêsu làm khác là Người không trung thành với sứ mạng của Người. Lời ghi thêm
“Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ” nhằm làm giảm
nhẹ nét tiêu cực nơi những gì được nói trước. Nhưng c. 6a kết luận vẫn ghi nhận
sự cứng lòng tin và sự ngạc nhiên của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu tiếp tục ra đi
(6b)
Tuy
nhiên, thất bại này vẫn không làm Đức Giêsu chán nản chùn bước. Người tiếp tục
ra đi như Người đã nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó” (1,38).
+ Kết
luận
Đức Giêsu trở lại quê hương Nadarét.
Người vào hội đường để giảng dạy, tức là thi hành sứ mạng ngôn sứ của Thiên
Chúa. Tuy nhiên, dù đã biết các phép lạ Đức Giêsu làm và nay vừa nghe Người
giảng, dân làng Nadarét lại chỉ coi Người như là “bác thợ, con bà Maria, anh em
của các ông Giacôbê, Giôxết, Giuđa và Simôn” (c. 3a) mà thôi. TM Mc cho thấy liên hệ huyết thống cũng
như tình đồng hương không giúp người ta nhận biết Đức Giêsu trong chân tính của
Người. Muốn khám phá ra mầu nhiệm Đức Giêsu, người ta phải để cho chính Người
dẫn dắt và giáo huấn ngày qua ngày.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề trọng tâm của bản văn là đức tin. Đức tin giúp
con người có sự khiêm tốn và sẵn sàng lắng nghe giáo huấn của Thiên Chúa và của
các vị sứ giả của Người. Cũng chính đức tin giúp người ta nhận biết các việc kỳ
diệu Thiên Chúa đã và vẫn đang làm trong thế giới, để ban ơn cứu độ cho mọi
người. Tại nơi nào con người khép kín lại với Thiên Chúa, khi Người đang ngỏ
với họ trong phép lạ, thì phép lạ trở thành chuyện phi lý. Cũng như quyền lực
của Người là ơn cứu độ cho chúng ta, thì sự cứng lòng tin của chúng ta là sự
bất lực của Người. Điều đó đã được chứng thực tại cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với
dân làng Nadarét: họ đã ngạc nhiên về những gì Đức Giêsu nói, và thế là để vuột
mất ý nghĩa của các lời Người loan báo.
2. Sự từ khước ở Nadarét vẫn tồn tại. Con người hôm nay,
những người Nadarét mới, vẫn đang thấy Đức Giêsu là một cớ gây ngạc nhiên và
vấp ngã. Do sự từ khước của con người hôm nay, hoạt động cứu thế của Thiên Chúa
như bị tắc nghẽn. Bị giam hãm trong các định kiến, họ không hiểu được cốt lõi tinh
túy của sứ điệp, cũng không tạo cơ hội cho các việc kỳ diệu có thể xảy ra hay
cho ơn Chúa có thể đến được với chính họ và người khác. Từ đây, chúng ta có thể
đi đến một nhận định: cộng đoàn Kitô hữu có hai trách nhiệm, bởi vì phải
vừa biết nhận ra các ngôn sứ được Thiên Chúa cho xuất hiện giữa các thành viên
của mình, vừa phải hỗ và làm gia tăng ơn Chúa mà sự hiện diện của họ mang lại.
Ý thức này đòi hỏi cộng đoàn phải trở thành một tập thể sẵn sàng, trong
tư thế cầu nguyện, có cái nhìn khôn ngoan, để nhận ra các dấu chỉ của Thiên
Chúa. Tất cả các điều này không đơn giản: trong đời sống mỗi ngày, chúng ta ghi
nhận rằng cộng đoàn chúng ta đang bước đi giữa hai đe dọa: một bên, cộng đoàn
có thể rơi vào một thứ hứng khởi dễ dãi mà chạy theo bất cứ một chủ trương
đổi mới nào, để rồi cuối cùng bị lạc hướng và bị phân tán; một bên, cộng đoàn
dễ bị thu hút bởi xu hướng bất động và sự cứng ngắc do bám vào một vài điều xác
tín nào đó.
3. Người môn đệ của Đức Giêsu không được nản chí khi gặp
thất bại hay chống đối. Nhiệm vụ của họ là cứ ra đi để rao giảng Lời Chúa, để
làm chứng, không nên bận tâm (và nặng lòng) với kết quả. Họ cần phải nhìn vào
Thầy Giêsu mà dấn thân. Như Đức Giêsu, họ cứ quảng đại làm việc, “lúc thuận
tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm
4,2). Niềm vui họ sẽ nhận được khơng phải do kết quả kiểm chứng được, nhưng là
do biết rằng họ đã kiên trì thực hiện những điều Thiên Chúa muốn.
4. Thành kiến là một tật xấu nằm sâu trong tâm khảm con
người. Chính tật xấu này làm cho khả năng đón nhận và loan truyền Lời Chúa bị
giới hạn lại. Các Kitô hữu cần học lấy bài học của thánh Phaolô: “vui khi thấy
điều chân thật” (1 Cr 13,6). Đấy là
khả năng nhận ra sự thiện hảo tại bất cứ nơi nào nó xuất hiện, và sẵn sàng nêu
lên.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm