CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
Thái độ của người truyền giáo khi bị khinh rẻ
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Mác-cô 6:1-6)
Họ hàng khinh trước, làng nước khinh
sau! Đó là câu tục ngữ Việt Nam. Chúa Giê-su đã phải trải qua tâm trạng bị
khinh chê ấy khi Người có dịp trở về quê nhà.
Dân làng Na-da-rét chẳng những không đón tiếp Người, mà còn “vấp ngã vì
Người” bởi họ nhìn Người dưới lăng kính của những định kiến về gia đình, địa vị
xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có cảm tưởng
thánh Mác-cô không mấy quan tâm đến sự kiện Chúa Giê-su bị dân làng khinh miệt
cho bằng thái độ của Chúa Giê-su trước những rẻ rúng của họ. Phải chăng đó cũng là một trong những thái độ
phải có đối với chúng ta, những người gieo Tin Mừng hôm nay?
Cuộc trở về quê quán của Chúa Giê-su
chắc chắn không phải là một thứ vinh qui bái tổ, mặc dù danh tiếng Người đã lừng
lẫy khắp nơi. Nhưng mục đích chính của
chuyến trở về này là để “giảng dạy trong hội đường”. Đúng vậy, rao giảng Tin Mừng là công việc chủ
yếu của sứ vụ; đến bất cứ nơi nào thì việc
đầu tiên Người làm là tới hội đường để giảng dạy. Người hăng say loan báo tin vui ơn cứu độ
Thiên Chúa đã bắt đầu thực hiện. Người
công bố sứ điệp Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và muốn họ được sống muôn đời. Nếu Người có thực hiện những phép lạ chữa
lành, thì đó chỉ là những dấu chỉ để nói lên tình yêu của Thiên Chúa muốn xoa dịu
những khổ đau thể chất và tinh thần của con người.
Đâu phải Chúa Giê-su không quan tâm đến
gốc gác của mình! Người hãnh diện được
làm thành phần của dân làng Na-da-rét chứ, mặc dù “từ Na-da-rét, làm sao có cái
gì hay được” (Gio-an 1:46). Nhưng hôm
nay, Người trở về Na-da-rét không phải là cho bản thân Người, nhưng là vì ích lợi
của dân làng. Chúa cũng muốn cho bà con
bạn bè trong làng được đón nhận những phúc lành của Thiên Chúa. Ước ao lớn nhất của Chúa Giê-su là họ nhận biết
rằng “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người
thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời… Chúa Cha yêu thương người Con và
đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin
vào người Con thì được sự sống đời đời” (Gio-an 3:16,35,36). Chúa Giê-su không khoe khoang thành tích nổi
tiếng của mình, nhưng rao truyền kế hoạch yêu thương cứu độ của Thiên
Chúa. Người mong dân làng Na-da-rét nhìn
lên cao, nhận biết sứ mệnh của Người chứ không phải vào gia cảnh trần thế của
Người.
Vì vậy, Chúa Giê-su không bị chạm tự
ái, không nổi giận trước những khinh chê của những người “họ hàng khinh trước”.
Có chăng, Người chỉ buồn… năm phút và “lấy
làm lạ vì họ không tin”. Người mong họ
tin để họ được sống đời đời, thế thôi!
Mà họ đã không tin, thì Người “không thể” làm được phép lạ nào tại
Na-da-rét, bởi mục đích của phép lạ là để người ta tin chính đáng, chứ đâu phải
để lòe thiên hạ. Rồi hành vi cuối cùng trong thái độ của Chúa Giê-su là cùng
các môn đệ “đi sang các làng chung quanh mà giảng dạy”. Chúa Giê-su không nản chí bỏ cuộc, nhưng Người
vẫn trung thành tiếp tục thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su, vị truyền giáo tiên khởi
và gương mẫu của chúng ta đã để lại bài học quý giá. Cho dù chúng ta không phải chịu cực khổ, bách
hại, tù ngục như các tông đồ và những vị thừa sai (2 Cô-rin-tô 4), nhưng trong
cuộc truyền giáo giữa đời sống hằng ngày và với tư cách là Ki-tô hữu đích thực,
chúng ta gặp không ít những khinh chê của… họ hàng và làng nước! Thí dụ khi chúng ta tham gia vào những sinh
hoạt giáo xứ thì bị chê là tham quyền cố vị;
khi chúng ta không ăn gian giờ ở sở làm thì bị coi là khù khờ; khi chúng ta không nhận hối lộ thì bị chê là
đạo đức giả… Tóm lại, có rất nhiều cái khinh cái chê chỉ vì chúng ta muốn làm
người Ki-tô hữu xứng đáng và đích thực!
Nhưng cần thiết là chúng ta cứ trung thành giống như Chúa.
Chúng ta chấp nhận những “thiệt hại” ấy
là vì chúng ta muốn cho những người chung quanh tin vào Chúa Ki-tô. Phải, trước hết họ tin những gì mắt thấy tai
nghe về chúng ta là Ki-tô hữu, rồi từ đó họ tin vào Chúa Giê-su, Đấng chúng ta
tin kính và sống theo Tin Mừng Người đã rao giảng. Vậy là truyền giáo đích thực rồi chứ còn gì nữa!
Lm.
Đa-minh Trần đình Nhi