ĐỨC GIÊSU
CHỮA NGƯỜI VỪA ĐIẾC VỪA NGỌNG
(Mc
7,31-37 – cn xxiii tn - b)
1.-
Ngữ cảnh
Sau khi Đức Giêsu bị
dân Nadarét loại trừ (6,1-6a), các môn đệ được sai đi rao giảng sự sám hối và
trừ quỷ (6,7-13). Nhưng khi Người đề nghị cho đám đông ăn (6,37), thì các môn
đệ sửng sốt, cũng ý như khi họ thấy Người đi trên mặt biển (6,51). Những người
nghe đọc Tin Mừng có nắm được tương quan giữa khả năng đi trên mặt nước và khả
năng nuôi sống đám đông chăng? Việc Đức Giêsu đi vào vùng Dân ngoại (địa hạt
Tia và Xiđôn), tại đó Người đã chữa con gái một bà gốc Phênixi xứ Xyri
(7,24-30) và chữa người vừa điếc vừa ngọng (7,31-37) cũng như hóa bánh nhiều
lần thứ hai (8,1-10) hẳn là khích lệ các độc giả gốc Dân ngoại nhiều.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba
phần:
1) Hoàn cảnh (7,31);
2) Đức Giêsu chữa người
tàn tật (7,32-35);
3) Lệnh Đức Giêsu cấm
phổ biến và phản ứng của dân chúng (7,36-37).
Tuy
nhiên, bản văn có gây ra những thắc mắc: nơi chốn không thể xác định; người tàn
tật có vẻ thụ động (không có đối thoại, có vẻ các cử chỉ của Đức Giêsu và công
thức A-ram quan trọng hơn); vai trò của nước miếng; một lệnh yêu cầu thinh
lặng, nhưng không giữ được…
3.- Vài điểm chú giải
- bỏ vùng Tia, đi qua
… đến… (31): Lộ trình
của Đức Giêsu hơi lạ (đi vòng lên phía bắc, rồi quặt xuống phía đông nam, tiếp
tục đi xuống phía nam băng qua Xêdarê Philipphê, đi đến phía đông của sông
Giođan, và như thế đến gần hồ Galilê về phía nam, trong phần lãnh thổ Thập
Tỉnh). Có lẽ tác giả Mc muốn mô tả cuộc hành trình xuyên qua một vùng đất
phần lớn thuộc Dân ngoại để báo trước sứ mạng của Giáo Hội là phải đến với muôn
dân.
- vừa điếc vừa ngọng (32): Từ ngữ Hy Lạp kôphos (x. 7,37; 9,25) có nghĩa là
“điếc”. Còn mogilalos (không phải là alalous, “câm”, c. 37) không có nghĩa là mất tiếng hoàn toàn, chỉ có nghĩa là
nói khó khăn (vì thế, đến c. 35: “anh ta nói được rõ ràng”).
- Người kéo riêng … (33): Tác giả Mc mô tả
phép lạ này theo tập tục thời đó trong thế giới Hy-La: tránh những cặp mắt hiếu
kỳ, sự đụng chạm bằng tay, dùng nước miếng, nhìn lên trời, thở dài, những lời
nói bằng tiếng ngoại quốc. Những chi tiết này phản ánh lối chữa bệnh thời đó,
nhưng cũng rất có thể là những quy ước của một thể văn (x. K. Kertelge; K.
Tagawa; A. Duprez).
- đặt ngón tay vào lỗ
tai: Những hành vi biểu tượng của Đức
Giêsu, mà những người chữa bệnh Hy-La và Do Thái thường làm, gợi ý cho người tàn tật biết rằng anh rất có thể
được chữa lành.
- nhổ nước miếng mà
bôi vào lưỡi: Sử gia Pliniô kể rằng hoàng đế
Vespasianô đã chữa một người mù bằng nước miếng (Hist. nat. 28, 4,7; Tacite, Hist. 6,18). Bài tường thuật này, cũng như những bài Mc 8,23 và Ga
9,6, là những dịp trong đó kể rằng Đức Giêsu đã dùng nước miếng. Chúng ta không
được biết chắc chắn nước miếng được sử dụng như thế nào. Có những thủ bản cho
rằng nước miếng được bôi trên môi, hoặc đặt vào miệng như một cử chỉ tượng
trưng; trong khi có những dị bản nói là cả ở trên tai nữa. Bản văn là “nhổ và
chạm lưỡi anh”, và Zerwich & Grosvenor giải thích : “bằng nước miếng”. Mann
cho rằng các hành vi này chỉ có tính cách tượng trưng mà thôi.
- Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng (34): Những cử chỉ này diễn tả
Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa và động lòng thương người tàn tật. Không
nên coi các cử chỉ này như là yếu tố của nghi thức ma thuật.
- Ép-pha-tha: Câu “Hãy mở ra” là lời dịch
nghĩa từ Hy Lạp ephphtha phiên âm từ A-ram ippơtah (hoặc itpơtah), do động từ phatah là “mở ra”.
- tai mở ra, lưỡi hết bị buộc (35): Đây là chi tiết văn chương
nhằm nói rằng Đức Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh; chân tính Người
là khác, và người ta chỉ biết được rõ ràng chân tính của Người khi theo Người
đến chân thập giá và đến cuộc Phục Sinh.
- ông làm cho kẻ điếc
nghe được, kẻ câm nói được (37): Nhận định này của đám đông nhắc tới Isaia 35,5-6, mà đoạn
văn Isaia này là một phần thuộc về cái nhìn tương lai vinh quang của
Israel (Is 34–35). Bản văn Cựu Ước này được sử dụng ở đây, điều này
chứng tỏ rằng tương lai vinh quang của Israel đã hiện diện trong sứ vụ của Đức
Giêsu.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh (31)
Có
lẽ câu truyện bắt đầu từ c. 32, còn tác giả Mc đã tạo ra c. 31 để cung
cấp một cái khung địa lý cho bản văn, vì chúng ta biết rằng Xiđôn đã được
nói đến ở 3,8, còn Thập Tỉnh đã được nhắc đến ở 5,20. Vậy c. 31 là câu nối bản
văn với phần đi trước. Các chi tiết gom lại ở đây muốn nói đến các miền đất
ngoại giáo chung quanh Galilê và nêu bật chủ trương phổ biến Tin Mừng sang đất
Dân ngoại.
* Đức Giêsu chữa người tàn tật (32-35)
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong
các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này
có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm
đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi
ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng
nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không
ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự
5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời
Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ
không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện
anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền
ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay
anh này đã được giải thoát khỏi.
* Lệnh Đức Giêsu cấm phổ biến và phản ứng
của dân chúng (36-37)
Đức Giêsu truyền
cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lăng. Nhưng những
người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác
giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai
thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng
Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ.
Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St
1,31).
+ Kết luận
Đọc lướt qua,
chúng ta thấy đây là một bài tường thuật về một phép lạ chữa bệnh về thể lý.
Thật ra, bài này, cùng với các bài tường thuật về việc chữa người mù (8,22tt;
10,46tt) là một lời cam kết rằng Đức Giêsu có thể mở tai, tháo lưỡi, mở mắt cho
các môn đệ, và là một lời mời gọi các ông tin tưởng vào Người, và để Người giúp
các ông. Hãy nhìn nhận sự giải thoát mà Người đã mang lại cho chúng ta. Cũng
hãy cố gắng đón nhận sự giải phóng mà Người đang muốn ban cho chúng ta, trên
nẻo đường Người đang mở ra trước mắt chúng ta, xuyên qua những ngờ vực và những
nỗi sợ hãi, mà tiến về vinh quang của Người.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng
phải có tâm tình tha thiết của Người là đưa Tin Mừng đến cho các Dân ngoại. Nếu
ngại ngùng vì đường dài, e dè vì những khó khăn có thể gặp về mọi phương diện,
các ông sẽ không đi xa được, và sẽ phản bội bản chất của Tin Mừng vì Tin Mừng
là ánh sáng cứu độ được Thiên Chúa ban cho mọi người qua trung gian của các
ông.
2. Các môn đệ đã không hiểu bản
thân và sứ mạng của Đức Giêsu nên đã bị Người trách (7,18; 8,17-21). Sự kiện Đức
Giêsu đã mở tai của người điếc cho hiểu rằng Người có thể ban sự hiểu biết cần
thiết để người ta sống đức tin. Và chính các môn đệ cũng cần được Người mở tai
cho, hầu nghe được và hiểu được những giáo huấn của Đức Giêsu, và nghe ra tiếng
kêu la của những con người khốn khổ hôm nay.
3. Theo thánh Bêđa (PL
92,203t), người Kitô hữu nào không lắng nghe Lời Chúa là người điếc và kẻ nào
không truyền đạt lời tuyên xưng đức tin cho kẻ khác là người câm. Nước miếng mà
Đức Giêsu bôi vào lưỡi anh câm có nghĩa là sapor Domini sapientiae (hương vị của sự khôn ngoan của
Chúa); còn ngón tay mà Đức Giêsu ấn trên tai anh điếc, tượng trưng ân huệ Thánh
Thần (x. Lc 11,20).
4. Giai thoại Đức Giêsu chữa
người vừa điếc vừa ngọng này có thể được coi như một dụ ngôn nói về biết bao
hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật của chúng ta hôm nay. Đây là những hoàn cảnh
ngặt nghèo khiến chúng ta ở xa rất nhiều “điều”, nhưng đồng thời lại cho chúng
ta gặp được Chúa tể sự sống. Khi đó, đã được tháo cởi tai và miệng, chúng ta có
thể nói: “Ngài làm điều gì cũng tốt cả”, với sự kinh ngạc thấm đẫm tâm tình
biết ơn.
5.
Khi Đức Giêsu nói “hãy mở ra”, tai anh ta mở ra lập tức và “anh ta
nói được rõ ràng”. Đức Giêsu nói ra và điều ấy xảy ra. Hôm nay Đức Giêsu cũng
nói Lời Người trên chúng ta, “Hãy mở ra!”. Với đôi tai đã được mở ra,
chúng ta không những lãnh nhận lời Người, mà lòng chúng ta cũng được mở ra để
đón lấy nữa. Nghe Lời Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
“Hãy
mở ra!”. Những lời này mở chúng ta ra với lòng nhân từ của Thiên Chúa. Những
lời đó cũng mở ra cho chúng ta thấy Thiên Chúa đang ở trong chúng ta, từng
ngày, trong các liên hệ giữa chúng ta và các loài thọ tạo. Đó chẳng phải là một bí nhiệm sao: một người
trông thấy và nghe được Thiên Chúa trong những biến cố nhỏ bé, thậm chí không
đáng kể thuộc đời sống hằng ngày? (Siciliano)
Lm FX Vũ Phan Long,
ofm