CON NGƯỜI
BỊ NỘP VÀO TAY NGƯỜI ĐỜI
(Máccô
9,30-37 – CN XXV TN - B)
1.-
Ngữ cảnh
Ở
Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó
ở 8,31. Tác giả cũng nhắc lại tình trạng không hiểu biết của các môn đệ, mà ta
đã thấy được tỏ lộ nơi phản ứng của Phêrô trên núi (9,5; x. 10,32). Ghi chú về
địa lý của chuyến băng ngang miền Galilê nhằm nhắc nhớ rằng kể từ 8,27, Đức
Giêsu không quay trở lại miền này nữa; Người đang trên đường đi lên Giêrusalem.
Đức Giêsu không muốn bị níu kéo vô ích trong cuộc hành trình này. Quả đúng là
theo 9,33, Người lại có mặt ở Caphácnaum, nhưng ta không thể nói về một hoạt
động mới ở Galilê nữa. Những gì xảy ra ở Caphácnaum chỉ liên hệ đến các môn đệ
mà thôi.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành
hai phần:
1) Loan báo Thương
Khó lần thứ hai (9,30-32);
2) Giáo huấn về
đời môn đệ (9,33-37).
Phần hai là khởi
đầu của một bài diễn từ đa tạp kéo dài tới c. 50. Khối này, dường như có trước TM Mc được đặt trong Diễn từ về Đời
sống cộng đoàn trong TM Mt (ch. 18). Mc tìm cách tạo sự thống nhất cho
đoạn này bằng cách ghép vào một vài ghi chú tiêu biểu của ngài (c. 30: bí mật;
c. 31: dạy; c. 32: các môn đệ không hiểu và sợ; c. 35: “nhà” đối lại với
“đường”; c. 34: cãi nhau).
3.- Vài điểm chú giải
- băng qua (30): Động từ paraporeuomai là một từ được tác giả
ưa chuộng, bởi vì động từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước, thì 4 lần ở trong TM II.
- Bị nộp (31): Ta có thể nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia (Gr
26,24), đến những Thánh vịnh về người trung hiếu đau khổ (Tv 70/71,4; Tv
139/140,5) và đến “các thánh của Đấng Tối Cao bị nộp” vào tay vua Antiôkhô
Êpiphanê (Đn 7,22-25). Vậy cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ cô đọng và
thể hiện trọn vẹn sự đau khổ của những người công chính, thân phận bị bách hại
của các ngôn sứ, cái chết của những vị tử đạo.
Động từ nộp (paradidômi) là động từ chuyên môn để nói về sự phản bội
(Giuđa “nộp” Đức Giêsu cho các thượng tế: 14,10; các vị này “nộp” Người cho
Philatô: 15,1.10; ông này lại “nộp” Người cho lính: 15,15). Đức Giêsu liên tiếp
bị chuyển cho quyền hành của mọi lực lượng gian ác: “bàn tay” là biểu tượng của
quyền hành, quyền lực, (x. 9,13 nói về Êlia-Gioan Tẩy Giả, nhưng cũng là báo
trước số phận của chính Người). Lời loan báo thứ ba sẽ nói chi tiết; và đây là
một chướng kỳ quá lớn: một người Do Thái bị những người Do Thái nộp cho Dân
ngoại, một sứ giả của Thiên Chúa bị nộp cho người ngoại giáo!
Cho đến lúc này,
người ta vẫn có thể hiểu lời loan báo này liên hệ đến những sáng kiến và những
trách nhiệm của loài người (Mc 14,21; x. Ga 19,11). Thế nhưng lời
nói ở thái bị động (paradidotai, “sẽ bị nộp”) còn là một kiểu nói quanh để chỉ hành động của Thiên
Chúa. Nếu vậy: “Thiên Chúa sẽ nộp Con Người vào tay loài người”, không phải là
sự gian ác đang hoành hành và thắng thế, nhưng là chính chương trình của Thiên
Chúa đang được thực thi xuyên qua sự ngang trái (x. Ga 3,16; Rm
8,32)! Đức Giêsu ý thức Người đang đi vào cuộc Thương Khó như biến cố trung tâm
của chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Khi về tới nhà (33): Để các ông có thể trở
thành môn đệ thực sự, cần phải có một sự dẫn nhập. Chủ đề “ngôi nhà” có mục
tiêu ấy. Thường thường, Mc không xác định ngôi nhà ở đâu,
nhưng xác định chức năng của ngôi nhà: nơi Đức Giêsu quy tụ môn đệ
(3,20.31-35), những cuộc trò chuyện riêng tư và những giải thích dành riêng
(7,17; 9,28; 10,10; x. 4,10.34), xa cách đám đông và các đối thủ. Thế nhưng lần
này tác giả xác định ngôi nhà ở Caphácnaum: phải chăng là nhà Simôn (1,21-29;
2,1), là biểu tượng của cộng đoàn Giáo Hội?
- Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại (35): “Ngồi” là tư thế của vị
thầy khi giảng dạy (x. c. 35; 4,1; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3;...);
Người sẽ chỉ trỗi dậy khi xong câu truyện (10,1: anastas). Chi tiết “gọi Nhóm Mười Hai lại” không hợp lý,
khi mà Đức Giêsu đã đang ở trong nhà với các ông. Nhưng cử chỉ ra lệnh này rất
có thể nhằm nêu bật tầm quan trọng của lời giáo huấn.
- Ai muốn làm người
đứng đầu … làm người phục vụ (diakonos) mọi người: Xem 10,43-44. Đức Giêsu không loại bỏ ý muốn là người đứng đầu, nhưng
Người chỉ cho thấy con đường đúng đắn đưa tới đó. Lý tưởng về lãnh đạo như là
phục vụ sẽ được Đức Giêsu nêu gương trong phần Tin Mừng còn lại. Khi nói đến “diakonos”, Người xác định kiểu phục vụ.
Người không nhắm đến việc phục vụ cưỡng chế của người nô lệ (doulos) mà là việc phục vụ tự do của
người tôi tớ, do chính người này muốn và thích; công việc này đòi hỏi sự chú
tâm trọn vẹn và tất cả các khả năng của người ấy để mưu ích cho người khác.
- một em nhỏ (36): Em nhỏ ở đây không phải là
biểu tượng của sự vô tội hoặc khiêm nhường, nhưng là biểu tượng của một người
không có quy chế pháp lý nên không được trợ giúp (yếu thế). Đứa bé không thể
làm gì cho người môn đệ. Đón tiếp một em nhỏ là làm một việc tốt cho một con
người không đáng kể, mà không mong được đền đáp. Đây không phải là cho một món
bố thí rồi bảo họ đi, nhưng là săn sóc và chịu trách nhiệm về họ.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Loan báo Thương Khó
lần thứ hai (30-32)
So sánh với Mc 8,31 và 10,32-34, ta thấy Lời loan
báo thứ hai này ít chính xác hơn cả, lại ngắn hơn, nên rất có thể là lời ở tại
gốc. Hơn nữa, câu này còn có kiểu chơi chữ “Con Người/người” và kiểu nói quanh
theo thái bị động để diễn tả hành động của Thiên Chúa (“bị nộp”). Tất cả những
chi tiết đó chứng tỏ câu này có một nguồn gốc A-ram.
Với lời tiên báo
thứ hai này về Thương Khó, tác giả Mc có thể quy hướng hoạt động của Đức Giêsu về Giêrusalem cách dứt khoát
hơn. Galilê không còn có thể cầm giữ Đức Giêsu nữa. Các môn đệ đi theo Thầy
trên đường Người đi. Ai bịt tai lại thì sẽ không nắm bắt được các đòi hỏi tương
lai.
* Giáo huấn về đời môn
đệ (33-37)
Phân đoạn này bắt
đầu với một xác định chính xác về địa điểm: Caphácnaum. Tuy nhiên, những
gì tiếp đó không được liên kết với nơi ấy, mà có thể được nói ở bất cứ nơi đâu.
Chi tiết địa lý này nhằm tạo cơ hội để Đức Giêsu ban cho các môn đệ một bài học
tại địa điểm quen thuộc nhất của miền Galilê.
Đức Giêsu đã chọn
ví dụ về phục vụ này vì vào thời của Người, các trẻ em bị coi như là những kẻ
thấp bé nhất và bị khinh thường; với ví dụ về em bé, Đức Giêsu muốn cho các môn
đệ thấy rằng các ông phải phục vụ cả những người thấp bé cùng rốt nhất. Người
đã thiết lập một tiêu chuẩn tổng quát để phân biệt điều thất sự quan trọng và
đúng đắn trong đời sống và trong lối cử xử của con người.
Các môn đệ phải
tiếp đón Nước Thiên Chúa như các trẻ em, có nghĩa là các ông không thể đi vào
đó bằng sức lực riêng. Cũng như các em bé, các ông phải cảm thấy mình được tình
yêu của Thiên Chúa che chở, bảo vệ, và phải để cho mình được Thiên Chúa lấp đầy
bằng những ân huệ. Chính Đức Giêsu vẫn quay về với Thiên Chúa như về với Người
Cha đầy tình yêu thương (Abba) (14,36) và biết rằng Người được Cha che chở bằng tình yêu của Cha.
+ Kết luận
Chỉ có Mc mới đặt ba lời loan báo Thương
Khó và Phục Sinh “trên đường”, trong khung cảnh một cuộc hành trình đưa Đức
Giêsu cùng với các môn đệ khởi hành từ Xêdarê Philípphê đến tận vùng cực bắc,
xuyên qua miền Galilê, đến tận Giêrusalem qua nẻo Giêrikhô. Rõ ràng ngài muốn
dạy chúng ta rằng kể từ lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu chính thức đi vào
bước thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mạc khải dứt khoát về bản thân
Người cũng như công việc của Người, bằng cách dấn vào một nẻo đường mới sẽ đưa
Người đến cái chết. Nẻo đường của Con Người, nẻo đường Khổ Nạn, là một nghịch
lý huyền bí chỉ được vén mở trong sự kín đáo.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu muốn lôi kéo tất cả những bạn đường của Người đi trên con
đường này. Đến lời loan báo thứ ba, ta thấy Người đi đầu, một mình, còn các môn
đệ đi theo sau, kinh hoàng. Chính Người hỏi đầu tiên, nhưng họ thì im lặng. Rõ
ràng họ thật vất vả khi phải theo Người trên nẻo đường này. Con đường là khung
cảnh giúp hiểu sự cương quyết của Đức Giêsu đi thi hành thánh ý Chúa Cha, cho
thấy sự cách biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng như tâm trạng thực của các
ông. Như các môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sợ hãi khi Người cho chúng ta thấy Người
là “người tôi tớ” hiến mạng sống vì chúng ta; vì chúng ta muốn tiếp tục yên ổn
đọc kinh và làm các nghi thức thay vì suy nghĩ và dấn thân theo các đòi hỏi của
Tin Mừng.
2. Người môn đệ được khai tâm để có phong cách người tôi tớ trong và do
cộng đoàn: tại đó, người ấy sẽ học thay thế mối bận tâm về chỗ nhất gây chia rẽ
và đối lập, bằng nỗ lực tìm kiếm chỗ chót, như phương thế duy nhất để kiến tạo
được sự hoà thuận khắp nơi (x. 9,50). Như thế, người ấy sẽ có thể thật sự bước
theo Đức Giêsu trên nẻo đường tiến về Giêrusalem. Sự cao cả được đo lường không
phải bằng thành công và danh tiếng, nhưng bằng giá trị của công việc phục vụ ta
cống hiến.
3. Các trẻ em có thể được coi như một địa chấn đồ (sismographes) của xã
hội loài người. Nếu các em phát triển bình thường, điều đó chứng tỏ tương quan giữa
những người lớn đang lành mạnh; nếu các em trở nên bất bình thường, điều đó cho
thấy lối sống của người lớn có gì sai trái, méo mó. Thật ra, tất cả những gì
gây tổn hại cho các trẻ em thì cũng chẳng xây dựng gì cho người lớn.
4. Bằng cách lấy một em bé làm điển hình, Đức Giêsu muốn tất cả chúng
ta hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu phải đặt những người không đáng kể, những người
nghèo nhất, tại trung tâm của các mối quan tâm của họ, của sự bạn tâm của họ.
Chúng ta có thể yêu thương, “ôm lấy” những con người bị loại trừ, như thánh
Phanxicô Assisi ngày xưa đã ôm hôn người phong cùi chăng?
Lm FX Vũ Phan Long,
ofm