ĐỨC GIÊSU
ĐỐI VỚI VIỆC LY DỊ VÀ CÁC TRẺ EM
(Máccô
10,2-16 – CN XXVII TN - B)
1.-
Ngữ cảnh
Bản văn đọc trong
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu Mc 10,1 là một tóm lược nhỏ quen
thuộc của tác giả Mc: một chi tiết địa lý khá mơ hồ (“miền Giuđê và vùng bên kia sông
Giođan”); một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho
đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1
cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần
Giêrusalem.
Khi nghiên cứu kỹ
đoạn văn cc. 2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận
với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX,
người ta nghĩ đến Do Thái
giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12 được
xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các
môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần :
1) Vấn đề ly dị (10,2-12):
a) giáo huấn cho dân chúng (cc.
2-9),
b) giáo huấn cho các môn đệ (cc.
10-12);
2) Đức Giêsu chúc lành cho trẻ
em (10,13-16).
3.-
Vài điểm chú giải
- chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp
pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu
ngầm theo Đnl 24,1-4. Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do.
Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm,
chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do
khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình
là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.
- để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu
vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn
thì cho rằng ngưòi Pharisêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm
nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta
do Người giới hạn “tự do” của họ.
- Thế ông Môsê đã
truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ
đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình,
và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt.
Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: “thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bh ‘erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một
tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9) được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn
bản: có được
phép ly dị không?
- Ông Môsê đã cho phép
viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng
của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành
vi pháp lý công khai tại toà án. Người chồng chỉ việc viết một giấy (“Tôi bỏ và
ly dị vợ tôi ngày này”), rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu
nói về phép (cc. 2.4) trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (=
điều răn) nào chăng (hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền
nào như thế trong Luật!). Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một
lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho
phép.
- vì các ông có lòng
chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi
lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con
người và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn
nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một lời cho phép ly dị đến lời làm nền
tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.
- Lúc khởi đầu công
trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho
thấy Người phản đối ly dị là do Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St
1,27; 2,24. Người khẳng định rằng trong chương trình nguyên thủy của Thiên
Chúa, những người kết hôn thì nên “một xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl
24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời
giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo
dựng, nên không hề đối lập với Kinh Thánh.
- Họ không còn là hai,
nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là
một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.
- loài người không
được phân ly (9): “Loài người”
đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo
Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình bắt đầu thủ tục, thì không cần
một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.
- khi về đến nhà, các
môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không
thể là ngôi nhà ở Caphácnaum (x.
1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng
tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy
riêng các môn đệ.
- Ai rẫy vợ mà cưới vợ
khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc
16,18c.
- và ai bỏ chồng… (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng
người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường
thường, các tác giả cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn
của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.
- trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu
nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.
- chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho
chúng.
- Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu
(x. 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và
bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các
môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc
18,16 đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.
- vì Nước Thiên Chúa
thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức
mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất.
Nước Thiên Chúa phải được đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh
hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên
Chúa (x. c.15).
- Thầy bảo thật (15): Từ
“thật” dịch từ amên trong bản Hy Lạp: “điều vững vàng”, “điều chắc chắn
là thế”.
- đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ
về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn
này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được quan hệ
với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Vấn đề ly dị (2-12)
Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của
Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo
Người. Cựu
Ước cho thấy có thể
ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù
các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một
tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của
các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.
Khi đặt câu hỏi
cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận
về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý
do hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đăt cuộc tranh luận
trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh
Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thuở tạo thiên lập
địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định
liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là
Đấng Tạo Hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã
nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một
xương một thịt”. Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành
vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả
tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn
đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.
* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)
Sau một đoạn nói
về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng
thực ra bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham
dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng
không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở
của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng
(như một em bé nhận quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước
này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì
Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói
về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực
thể hiện tại. Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên
việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả
Mc đã hiểu tương quan với hiện tại
này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên
Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết
thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động
này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và nhất là lời hứa được
công bố ở cc. 14t được xác nhận.
+Kết luận
Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả Mc muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt
động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này các môn đệ
cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông
cho thấy các ông không có khả năng hiểu đường lối của Thầy, và do đó rất cần
được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo huấn đặc biệt, các ông có tư cách để
truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho các cộng đoàn.
Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn đệ
phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và
sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người
thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước
Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ
trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà
còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.
Ngoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn
này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong
xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn
được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên
Chúa được dành cho những con người như thế.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều
mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ
vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn
độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của
họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây
liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. “… Gia đình là tế
bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những
khác biệt của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là
nơi cha mẹ chuyển giao đức tin cho con cái” (Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn
Niềm vui Tin Mừng, số 66).
2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em,
nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em bé, họ phải cảm thấy
mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Người lấp
đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ mà
ta đón nhận với lòng biết ơn.
3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục
vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn
phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái. Các bổn phận được
giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất
cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình
yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân huệ.
4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân vị của mỗi người,
người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ hay chê bai người
nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì mình là Kitô hữu.
Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của mình để xin tha
thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?
Lm FX Vũ Phan Long,
ofm