ơn gỌi cỦa ĐỨc Maria
(Luca
1,26-38 – CN IV MV - B; Truyền Tin)
1.- Ngữ cảnh
Câu
truyện thứ hai của TM Lc trong
phân đoạn gọi là “Tin Mừng về thời thơ ấu” (1,5–2,52) song song với câu truyện
thứ nhất: cũng như cuộc chào đời lạ lùng của Gioan được loan báo cho cha là
Dacaria (1,5-25), cuộc chào đời lạ lùng của Đức Giêsu sẽ được loan báo cho mẹ
Người là Đức Maria (1,26-38). Cũng giống như trong lời loan báo cuộc chào đời
của Gioan, ở đây cũng có một cái khung gồm năm yếu tố thuộc về thể văn loan báo
các cuộc chào đời trong Cựu Ước (xem các cuộc chào đời của Ítmaên, Isaác,
Samson, Samuên):
a)
thiên thần đi vào (1,28),
b)
Đức Maria bối rối (1,29),
c) sứ
điệp của trời cao (1,30-33),
d)
vấn nạn của Đức Maria (1,34bc),
e)
thiên thần trấn an và cho dấu chỉ: bà Êlisabét có thai (1,35b-37).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật
(1,26-27);
2) Cuộc đối thoại giữa thiên thần
Gabriel và Đức Maria (1,28-37):
a)
Thiên thần truyền tin (cc. 28-33),
b)
Câu hỏi trung tâm (c. 34),
c)
Thiên thần giải thích (cc. 35-37);
3) Sự chấp thuận của Đức Maria (1,38).
3.- Vài điểm chú giải
-
Gáprien (26): Tác giả Lc nhận ra rằng “sứ thần của Chúa” là thiên
thần thuộc lời sấm của sách Đanien
ch. 9 về bảy mươi tuần; ngài đã đến với Đanien “vào lúc dâng lễ vật ban chiều”
(Đn 9,21; x. 8,16). Cùng với Micaen (Đn 10,13; 12,1) và Raphaen (Tb 3,17), Gáprien là một trong ba
thiên thần được nêu tên rõ ràng trong Cựu Ước. Tên Gabrý-’êl có nghĩa là
“Thiên Chúa là anh hùng” hay “Thiên Chúa là chiến sĩ của tôi”.
-
Nadarét (26): Nadarét không được nhắc đến cả trong Cựu Ước lẫn trong
các tác phẩm của Phl. Gioxép hoặc các tác phẩm chú giải của các kinh sư. Ta
biết đến thôn làng này nhờ một mảnh bản văn khắc bằng tiếng Hípri tìm ra
năm 1962 ở Xêdarê bờ biển, trong đó liệt kê hai mươi bốn nhóm tư tế (x. 1,5) và
các làng hoặc thành phố nơi các nhóm ấy cư trú. Nhóm thứ mười tám là nhóm
Happozzez được ghi là cư trú tại Nsrt, “Nazareth”. Bản văn khắc này
thuộc về cuối thế kỷ iii hoặc đầu
thế kỷ iv sau CG. Ở đây tên Hy
Lạp được ghi là Nazareth, nhưng ở Lc
4,16, tên được ghi là Nazara (cũng như ở Mt 4,13).
- thành hôn
(27): Thuật ngữ “thành hôn” hay “đính hôn” ở đây là dạng perfect participle
passive emnêsteumenên của động từ mnêsteuô, “đính hôn”,
“betroth”. Dạng ngữ pháp này có nghĩa là việc đính hôn đã xảy ra và vẫn còn tồn
tại. Giáo sư Fitzmyer (chuyên về truyền thống Luca) đã dịch emnêsteumenên
là “engaged to a man”; Bản dịch Đại kết (TOB) dịch là “accordée en mariage à un
homme”; Bản dịch của École de Jérusalem (BJ) dịch là “fiancée à un homme”.
Dường như toàn câu văn Luca lấy từ Bản
LXX của Đnl 22,23 (parthenos
memnêsteumenê andri, “khi một cô gái còn trinh đã đính hôn với một
người đàn ông”; x. Mt 1,18). Ở bên
Paléttina, việc kết hôn của người con gái diễn ra thành hai giai đoạn:
(1)
Lễ “cam kết” (Hípri êrusin = La-tinh sponsalia), hay là việc trao
đổi về hình thức sự ưng thuận kết hôn trước mặt những người chứng (x. Ml 2,14) và trả khoản môhar, “giá
cô dâu” (một khoản tiền trả cho cha mẹ cô gái; x. St 34,12; Xh 22,16; 1 Sm 18,25);
(2)
Chính lễ “thành hôn” (Hípri nissuin) hoặc là lễ “mang (rước)” cô gái về
nhà chàng trai (x. Mt 1,18; 25,1-13).
Lễ
cam kết đã cho chàng rể có những quyền pháp lý trên cô gái, và cô này đã có thể
được gọi là “vợ” (Hy Lạp gynê, x. Mt
1,20.24) của anh. Việc cam kết chỉ bị phá hủy khi anh ta ly dị cô. Do đó bất cứ
hành vi nào của cô vi phạm các quyền làm chồng của anh đều bị coi là ngoại
tình. Sau lễ nghi cam kết, người con gái thường vẫn ở tại gia đình mình khoảng một
năm trước khi được mang về nhà chồng.
Như
vậy, vào lúc được truyền tin tại Nadarét, Maria đã cam kết thành hôn với
Giuse rồi, có nghĩa là đã kết hôn đúng pháp lý với Giuse, đã thật sự là
“vợ” của ông; cô chỉ chưa được rước về nhà Giuse thôi. Với lại, nếu đọc Lc 2,5, chúng ta thấy: Dù lúc đó Maria
đã về chung sống với Giuse rồi, tác giả Luca
vẫn gọi Maria là emnêsteumenê: Ở đây, Fitzmyer cứ dịch sát là “his
fiancée”; TOB dịch thẳng ra là “épouse”; còn BJ cũng dịch là “sa fiancée”. Dù
sao, dựa vào bản Luca Hy Lạp, có thể
hiểu hứa hôn cũng là thành hôn. Bản Nova Vulgata đã dịch là desponsatam, “hứa hôn”, nhưng đến Lc 2,5, bản văn đã dịch và thêm từ ngữ uxor (vợ) để giải thích từ desponsata thành một câu như sau: “cum
Maria desponsata sibi, uxore praegnante”, “cùng với Maria đã
đính hôn với ông, vợ đang có thai”. Như thế Bản Nova Vulgata vừa giữ từ ngữ có
nghĩa “đính hôn”, vừa giải thích theo nghĩa truyền thống Hípri: “đính hôn” đây
có nghĩa là “vợ” về pháp lý.
-
Giuse (27): Hầu chắc đây là dạng gọi tắt của tên Yôsýp-yah,
“Ước gì Đức Chúa thêm cho” (các đứa con khác ngoài đứa con vừa chào đời) (x. Er 8,10; St 30,24).
-
Maria (27): Đây là tên của chị ông Môsê (Hípri Miryam, Xh 15,20). Bản LXX thường viết là Mariam,
cũng như Lc ở đây, nhưng cách đọc tốt hơn, là Maria, được chứng
thực trong các bản văn ngoài Kinh Thánh (x. Lc
2,19). Miryam (và Mariam) là một tên Sêmít, có nguồn gốc
Canaan, có liên hệ với danh từ mrym (Ugarít và Hípri) nghĩa là “độ cao,
đỉnh cao”.
-
Mừng vui lên (28): Chaire (đọc là khai-rê) là kiểu chào thông thường trong
văn chương Hy Lạp và được cả người Sêmít dùng trong Tân Ước (x. Mt 26,49; 28,9). Nhưng theo nhiều nhà
chú giải, kiểu chào Sêmít quen thuộc hơn, là eirênê (Lc 10,5; 24,36; Ga 20,19.21.26), dịch từ tiếng Hípri shalôm hay tiếng Aram shelâm.
Dạng mệnh lệnh chaire (do động từ chairein), “Mừng vui lên” xuất
hiện bốn lần trong Bản LXX (Xp 3,14; Ge 2,21; Dcr 9,9; Ac 4,21). Ba ví
dụ đầu là một lời sấm ngỏ với Israel hoặc Giêrusalem để nói về cuộc tái
thiết Dân Thiên Chúa: “Thiếu nữ Sion”, tức Dân Chúa, được mời gọi vui lên, vì
được Đức Chúa đến viếng thăm. Rất có thể Lc đang quy chiếu về Xp 3,14-17, và như thế ám chỉ Đức Maria
là “thiếu nữ Sion”, cũng với cùng một lý do: “Đức Chúa ở cùng bà”.
- Hỡi
đấng đầy ân sủng (28): Công thức này chính là một tên riêng thiên thần đặt
cho Đức Maria (x. Tl 6,12), trong
tiếng Hy Lạp là kecharitômenê (pf. pass. ptc). Từ ngữ này cho thấy Đức Maria
giống như một bình chứa sự sủng ái của Thiên Chúa; do đó nên dịch là
“đấng [đã và vẫn còn đang] được [Thiên Chúa] sủng ái” (vì “được sủng ái” nên
cũng “đầy ân sủng” như là kết quả của sự sủng ái: Bản Vg dịch là gratia
plena). Câu này sẽ được giải thích bởi câu 30, “vì bà được đẹp lòng Thiên
Chúa” (NTT: “người đã đắc sủng nơi
Thiên Chúa”). Xem thêm St 6,8; 18,3.
Trong Tân Ước, từ charis trước tiên có nghĩa là lòng sủng ái của Thiên
Chúa tỏ ra nơi hành vi thi ân giáng phúc nhưng-không.
- Đức
Chúa ở cùng bà (28): Công thức này được dùng thường xuyên trong Cựu Ước, nhưng
dưới dạng lời chào thì chỉ có hai lần (R
2,4; Tl 6,12). R 2,4 là một lời cầu chúc; Tl 6,12 là một tuyên bố. Do Lc 1,28 tương tự Tl 6,12,
có thể hiểu đây là một tuyên bố.
-
Người sẽ nên cao cả (32): x. St 16,12.
-
Đấng Tối Cao (32): Có thể danh hiệu này liên hệ đến danh hiệu Hípri ‘Elyôn
hoặc danh hiệu Aram ‘Illây, “Đấng Cao cả, Đấng được tôn dương”.
- tôi
không biết đến việc vợ chồng (34): dịch sát là “vì tôi
không biết một người nam (hoặc: một người chồng, HL. andra)”.
Động từ ginôskein, “biết”, thường được dùng như một uyển ngữ để chỉ quan
hệ vợ chồng (St 19,8; Tl 11,39; x. Mt 1,25).
-
Thánh Thần (35): Sự song đối giữa “Thánh Thần” và “quyền năng Đấng Tối Cao”
khiến ta hiểu là hai công thức này giải thích lẫn nhau: Thần Khí được hiểu theo
nghĩa Cựu Ước là quyền lực sáng tạo và năng động của Thiên Chúa hiện diện nơi
các con người.
- ngự
xuống (35): eperchesthai. Câu văn có nghia là con trẻ sẽ sinh
ra sẽ là một “quà tặng” của Thiên Chúa theo nghĩa viên mãn.
- sẽ
rợp bóng (35): Động từ episkiazein được dùng trong Xh 40,35 cho đám mây vinh quang Thiên
Chúa tràn đầy Lều Tạm trong sa mạc.
- không
có gì là không thể làm được (37): Câu này nhắc đến St 18,14 (LXX) liên hệ đến Sara, vợ son
sẻ của Abraham.
- xin
Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói (38): Lc dùng thể opt. genoito, diễn tả
một một nguyện ước có thể đạt được.
Các
điểm gặp nhau giữa Lc 1 và 2 Sm 7 (bản văn NTT):
2
Sm 7 |
Lc
1 |
c. 9: “một danh lớn” |
c. 32: “Ngài sẽ làm lớn” |
c. 13: “ngai vương quyền
nó” |
c. 32: “ngai Đavít cha
Ngài” |
c. 14: “nó sẽ là con Ta” |
c. 32: “Con Đấng Tối cao” |
c. 16: “nhà ngươi, vương
quyền của ngươi” |
c. 33: “vua trên nhà Yacob
cho đến đời đời” |
4.- Ý nghĩa của bản văn
*
Khung cảnh và các nhân vật (26-27)
Tác
giả Luca cho thấy vẫn là thiên thần Gabriel, đấng đã đến gặp ông
Dacaria, loan báo cuộc chào đời của Đức Giêsu. Khung cảnh thời gian là “tháng
thứ sáu” rõ ràng phản ánh bút pháp của Lc, vì nhằm nối kết truyện này
với phần kết của truyện Gioan Tẩy Giả (1,24b-25). Dacaria đã được loan báo về
cuộc chào đời và nhiệm vụ của con ông là Gioan. Nay đến lượt Đức Maria được loan
báo về cuộc chào đời và định mệnh của con Mẹ là Đức Giêsu. Đức Maria được giới
thiệu là “trinh nữ” hai lần, còn Giuse được gọi là vị hôn phu chứ không phải là
chồng (như Mt 1,18-20) thuộc nhà
Đavít. Nơi chốn là Nadarét; tác giả Luca
đã gọi bằng tên Hy Lạp cao quý polis (thành
phố), nhưng đây chỉ là một thôn làng nhỏ bé. Đây cũng là nơi Đức Giêsu sẽ sống
mười hai năm đầu đời (2,39-40) và là thành chứng kiến tuổi trưởng thành của Đức
Giêsu, vì tại đây Người sẽ quy phục Đức Maria và ông Giuse và sống trước nhan
Thiên Chúa (2,51-52) để trở nên một người lớn. Đây là thành của Người, vì từ
đây Người được gọi là “người Nadarét” (4,34; 18,37; 24,19).
*
Cuộc đối thoại giữa thiên thần Gabriel và Đức Maria (28-37)
a)
Thiên thần truyền tin (28-33)
Tin Mừng nói về Maria như là “trinh nữ
làng Nadarét”. Nadarét là một thôn làng không quan trọng (x. phản ứng của
Natanaen: Ga 1,46). Đây không phải là
khung cảnh của Đền Thờ Giêrusalem, với các lễ dâng, với hương khói (x. 1,8-9)
vào một ngày đại lễ. Maria là “trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse”
(1,27).
Nếu đối chiếu câu truyện truyền tin
cho Dacaria (1,5-20), chúng ta sẽ thấy nổi lên những điểm sau: thiên thần
Gabriel là sứ giả loan báo những điều quan trọng và chính ngài liên kết hai bài
tường thuật, bằng cách luôn luôn đưa độc giả về với Đấng sai phái; Gioan là lời
hứa ban cho Dacaria và Êlisabét; “Con Đấng Tối Cao”, Đấng ngự trên “ngai vàng
vua Đavít, tổ tiên Người”, Đấng trị vì mãi mãi trên nhà Giacóp, là nội dung sứ
điệp ban cho Maria. Vị Tiền Hô trong Đền Thờ của Luật cũ; Đấng Mêsia tại Hòm
Bia Giao ước. Một người đàn ông, một tư tế, có một gia phả rõ ràng (thuộc nhóm
Avia), được mạc khải là sắp có một cuộc chào đời lạ lùng, do Thiên Chúa can
thiệp; một người thiếu nữ, không hề nổi tiếng về dòng tộc, được báo cho biết là
sẽ có con trong khi vẫn là trinh nữ.
Maria được Thiên Chúa kêu gọi và được
làm cho có khả năng trở thành mẹ. Mẹ được tháp vào trong chuỗi những người đặc
biệt được Thiên Chúa kêu gọi, đã nhận được từ nơi Thiên Chúa một nhiệm
vụ đặc biệt nhằm đưa lại sự thiện hảo cho Dân Thiên Chúa. Trong lời chào của
thiên thần “Mừng vui lên, hỡi Đấng được sủng ái, Thiên Chúa ở cùng bà” (1,28),
khung cảnh của ơn gọi của Đức Maria được xác định, đó là: niềm vui, ân sủng và
sự trợ giúp của Thiên Chúa. Lời đầu tiên của thiên thần thường được dịch ra
thành một lời chào chung chung: “Kính chào bà!”. Khi xuất hiện trong bối
cảnh là những bước khởi đầu của Đức Giêsu, vị sứ thần của Chúa luôn luôn đưa
lại niềm vui lớn lao: cho Dacaria (1,14) và các mục đồng (2,10). Tất cả có đó
để cho thấy rằng nét tiêu biểu của sứ điệp trung tâm và quan trọng hơn của ngài
là niềm vui; do đó lời đầu tiên của ngài có nghĩa chính xác là Chaire,
“Hãy vui lên!”. Điều đầu tiên Đức Maria nhận được từ thiên sứ của Thiên Chúa
là: “Bà có mọi lý do để vui lên. Điều tôi có nhiệm vụ đến nói cho bà thì liên
hệ đến bản tính thâm sâu nhất của bà. Hãy vui lên!”. Công thức này sẽ được nhắc
lại dưới dạng phủ định và tiêu cực: “Xin đừng sợ”.
Đức
Maria được mô tả là “Đấng đầy ân sủng/Đấng được sủng ái”, được chọn làm Mẹ của
Đấng được chào là Đấng Cứu Độ, Đấng Kitô, Đức Chúa (2,11). Yếu tố này của mẫu
tính của Đức Maria sẽ lại xuất hiện trong TM
III (Lc 8,19-21; 11,27-28) và trong
sách Cv (Cv 1,14). Đức Maria
không trả lời ngay với niềm vui chan hòa. Mẹ bị đánh động, Mẹ suy nghĩ, xin một
giải thích, rồi chấp nhận nhiệm vụ với niềm tin. Chỉ trong cuộc gặp gỡ với
bà Êlisabét, niềm vui của Mẹ mới bung mở ra, trong bài thánh ca ngợi khen
(1,46-55).
Câu nói thứ hai của thiên thần là “bà
được sủng ái”, cho hiểu lý do của niềm vui này: “Bà được sủng ái, nghĩa là
Thiên Chúa đã ban cho bà cách vĩnh viễn ân sủng của Người, sự sủng ái của
Người, sự bằng lòng của Người. Tình yêu đầy nhân ái của Người được ngỏ với bà”.
Thiên thần nói tiếp: “Vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (1,30); câu này diễn tả ý
nghĩa của cụm từ “bà đầy ân sủng”. Đặc điểm này nơi Đức Maria nổi bật đến nỗi
thiên thần đã chào người không bằng tên riêng “Maria”, mà bằng
“Bà-được-sủng-ái” như một tên riêng mới. Quan hệ của Thiên Chúa với Mẹ
được diễn tả ra như thế. Nền tảng ơn gọi của Đức Maria và của mọi niềm vui được
xác định như thế. Hầu như có thể nói “Maria” là tên Mẹ đã nhận được từ cha mẹ;
còn “Bà-đầy-ân-sủng/được-sủng-ái” là tên đã được Thiên Chúa ban cho Mẹ.
Thiên thần lại nói: “Đức Chúa ở cùng
bà”, câu này nhắm tới sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Đây không phải là một sự
hiện diện tổng quát (và mơ hồ) của Thiên Chúa, nhưng là sự trợ giúp thực sự, hữu
hiệu. Lời đảm bảo này chỉ được ban cho những vĩ nhân được kêu gọi trong lịch sử
dân Thiên Chúa (Giacóp, Môsê, Giôsuê, Ghít-ôn, Đavít). Thiên Chúa không chỉ
giới hạn vào việc kêu gọi, rồi bỏ mặc người ta, nhưng đồng hành với họ và làm
cho họ có khả năng chu toàn nhiệm vụ. Người đảm bảo là Người hiện diện và trợ
giúp họ thường xuyên. “Đức Chúa ở cùng bà” sẽ được chứng thực bằng cuộc chào
đời của con trẻ.
Đức Maria
đã phản ứng lại lời chào của thiên thần vừa trên bình diện cảm xúc vừa trên
bình diện lý trí: Mẹ ngạc nhiên (“rất bối rối”) và suy nghĩ (“tự hỏi”). Mẹ mở
ra với sứ điệp này và cố gắng hiểu sâu xa hơn. Thiên thần liền trình bày nhiệm
vụ của Mẹ: “Này đây, bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là
Giêsu”. Trên nền tảng là khả năng tự nhiên của Mẹ là phụ nữ, Đức Maria được gọi
đưa lại sự sống cho Đức Giêsu, phải đón nhận cuộc sống con người của Đức Giêsu
vào lòng. Đức Maria cũng phải cho Người một cái tên, rồi trước và hơn
những người khác, phải dành hết thì giờ và trọn bản thân mà chăm sóc Người cả
về thân xác lẫn tinh thần trong nhiều năm.
b)
Câu hỏi trung tâm (34)
Khi
hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (c. 34),
Đức Maria xin thêm một giải thích nữa. Mẹ đón nhận các lời của thiên
thần trọn vẹn, không đòi bổ sung cũng không góp vào những suy tư riêng. Mẹ
tuyên bố về tình trạng của mình là không có khả năng chu toàn nhiệm vụ được ký
thác (x. Gr 1,6tt). Câu hỏi với hàm ý
là Đức Maria thiếu khả năng là một bản lề trong cuộc đối thoại của Mẹ
với thiên thần, đã đưa đến một mạc khải rõ ràng hơn: thiên thần đã loan báo sự
chào đời của Đấng Mêsia, bây giờ ngài phải loan báo về thể thức trinh khiết của
cuộc chào đời ấy. Thiên thần cho biết sự trợ giúp quyền năng của Thiên Chúa:
chính quyền lực tác sinh, sáng tạo của Thiên Chúa sẽ làm cho Đức Maria có khả
năng phục vụ cuộc sống của Đức Giêsu.
c)
Thiên thần giải thích (35-37)
Lời
loan báo chính thức bắt đầu với lời chào của thiên thần Gabriel. Lời này gồm
hai tuyên bố về đặc tính lạ thường của con trẻ Người sẽ cho chào đời và về sự
hiện diện đặc biệt của Thiên Chúa trong cuộc đời con trẻ.
Cũng
như nỗi bất hạnh của bà Êlisabét đã được cất đi do sự can thiệp của Thiên Chúa
nơi một người con trai sẽ trở thành “nhân viên” của Đức Chúa (Yhwh), một ngôn sứ trước khi
Người đến, thì tình trạng đồng trinh của Đức Maria sẽ được ảnh hưởng của Thiên
Chúa tận dụng để Mẹ mang thai một người con trai, người này sẽ là thừa
kế vua Đavít và là Con Thiên Chúa. Người sẽ là “Cao Cả” (một danh hiệu
dành riêng cho Đức Chúa trong Bản LXX), sẽ được chào là Con Đấng Tối Cao, và sẽ
ngự trên ngai vàng Đavít để trị vì tới muôn đời. Đây là tầng ý nghĩa thứ nhất
(cc. 32-33). Ở tầng ý nghĩa thứ hai (c. 35), Người được xác định là Đấng Thánh,
Con Thiên Chúa. Nếu sự thành thai của Gioan đòi hỏi một phép lạ, sự
thành thai của Đức Giêsu, được trình bày song song, cần có một phép lạ
lớn hơn, đó là sự thụ thai do một trinh nữ.
Sự
thành thai Đức Giêsu xảy đến do Chúa Thánh Thần xuống trên Đức Maria và quyền
năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Mẹ (1,35); kết quả là Đức Giêsu sẽ là
Con Thiên Chúa. Các động từ eperchesthai và episkiazein đều có
nghĩa bóng, diễn tả sự can thiệp huyền bí của Thánh Thần và quyền năng Thiên
Chúa đưa tới kết quả là vai trò của Đức Giêsu trong dòng tộc Đavít và tư cách
Con Thiên Chúa của Người.
Trong
cả hai tuyên bố cho Đức Maria, Đức Giêsu được xác định là thuộc dòng dõi Đavít
và vai trò của Người là Đấng Mêsia theo lời sấm của Nathan trong 2 Sm 7 (so sánh 2 Sm 7,9.13-14.16 với Lc
1,32-33). Tuy nhiên, bởi vì không có chỗ nào trong nền văn chương Do Thái tiền
Kitô giáo ghi rằng Đấng Mêsia được mong đợi có tên “Con Thiên Chúa” cách minh
nhiên, chúng ta hiểu rằng danh hiệu “Con Thiên Chúa” không được hiểu theo nghĩa
thiên sai. Như vậy, nếu Đức Giêsu là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít (x. cc.
32-33), Người không chỉ là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa thiên sai; không chỉ là
Đấng Mêsia nhà Đavít, Người còn là Con Thiên Chúa nữa.
Ở
tầng thứ hai, một cấu trúc song song được vận dụng để nói rằng Đức Maria
sẽ thụ thai nhờ can thiệp của Thiên Chúa, và do đó, con của người sẽ là Con
Thiên Chúa: “Thánh Thần” đến trên người và “quyền năng Đấng Tối Cao” rợp bóng
trên người là những công thức song song để nói về can thiệp của Thiên Chúa.
* Sự
chấp thuận của Đức Maria (38)
Đối với Lc, Đức Maria là kiểu
mẫu cho người tín hữu, được loan báo là có phúc. Và bởi vì Mẹ đã được sủng ái, Mẹ
sẽ được tuyên bố là có phúc bởi mọi thế hệ (1,48). Trong Cv 1,14, Đức Maria ngồi giữa các tín hữu để chờ đợi Thánh Thần mà
Đức Giêsu đã hứa. Một điểm quan trọng hơn nữa, đó là Đức Maria là “nữ tỳ của Chúa”
(1,38). Ở đây tác giả Lc báo trước cách ngài sẽ mô tả Đức Maria trong Tin
Mừng, đặc biệt ở 8,19-21: Mẹ sẽ là người “nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành”. Còn ở 1,38, Đức Maria tỏ ra như là người cộng tác với chương trình cứu
độ của Thiên Chúa. Khi cho thiên thần gọi Đức Maria là “đầy ân sủng”, Thiên
Chúa đã cho Maria biết đâu là tương quan của Người với Maria. Nay tự nhận mình
là “nữ tỳ của Chúa”, Đức Maria diễn tả đâu là tương quan của Mẹ với Thiên Chúa.
Mẹ nhìn nhận mình được gọi phục vụ Thiên Chúa. Mẹ muốn lắng nghe Chúa và đi
theo ý muốn của Chúa. Trong toàn bộ Kinh Thánh, không có một phụ nữ nào,
ngoại trừ Đức Maria, được gọi là “nữ tỳ của Chúa”.
+ Kết
luận
Đức Maria được ký thác một nhiệm vụ đặc
biệt. Hẳn là chúng ta phải nhìn nhận ơn gọi của Mẹ là một ơn gọi đặc
biệt và vui mừng với Mẹ. Nhưng xuyên qua nhiệm vụ của Mẹ, chúng ta có thể ghi
nhận các đặc tính tổng quát của mọi ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Ơn gọi đến
từ lòng nhân từ và sủng ái của Thiên Chúa và có kèm theo sự trợ giúp hữu hiệu
của Người. Con người phải dấn thân trọn vẹn và tận dụng hết thì giờ để phục vụ
Đức Giêsu. Khi đó, ơn gọi sẽ đưa lại niềm vui, niềm vui phát xuất từ việc phục
vụ ấy.
Nhưng điểm còn quan trọng hơn nữa, đó
là giáo huấn của tác giả Lc về Đức Giêsu: Người là Đấng Mêsia và là Con
Thiên Chúa. Danh hiệu này, không phải là Đức Giêsu sẽ chinh phục được, nhưng
thuộc về Người theo quyền ngay khi Người đến trần gian.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Để
có thể thực sự hiểu Đức Maria đầy ân sủng và Thiên Chúa bày tỏ lòng thương yêu
Mẹ có nghĩa là gì, ta cần phải trước tiên hiểu Thiên Chúa là ai. Đọc Tv 8, chúng ta nhận ra sự ngỡ ngàng kinh
ngạc của tác giả khi đứng trước công trình của Thiên Chúa và sự cao cả uy hùng
của Người được bày tỏ ra trong đó: “Con người là ai mà Chúa cần nhớ đến, Phàm
nhân là gì mà Chúa phải chăm lo?”. Mỗi ơn gọi có đặc điểm là người được gọi
càng lúc càng để cho tiếng gọi nắm bắt lấy mình sâu xa hơn. Họ mở cả bản thân
ra với tiếng gọi và tìm cách hiểu hết ý nghĩa của nó.
2. Sứ
mạng của Đức Maria nối dài và kết thúc sứ mạng của Israel. Mẹ là “thiếu nữ
Sion” sẽ mang Đấng Mêsia trong lòng. Mẹ là “nữ tỳ của Chúa” để đảm nhận và làm
trọn ơn gọi của dân Thiên Chúa, là tôi tớ của Thiên Chúa, cũng như ơn gọi của
những tôi tớ trứ danh của Thiên Chúa trong Cựu Ước (Abraham, Giacóp, Môsê,
Đavít, Salômôn, Isaia và Người Tôi Tớ của Đức Chúa ở Is 40–55).
3.
Khi nghe loan báo Gioan Tẩy Giả sẽ chào đời, ông Dacaria đã yêu cầu một dấu
chỉ chứng tỏ sứ điệp đáng tin. Còn Đức Maria thì tin ngay sứ điệp, không đòi
hỏi dấu chỉ. Câu hỏi của Mẹ không phải là dấu chứng tỏ một sự hoài nghi,
nhưng là một lời xin ánh sáng để soi sáng đức tin của Mẹ. Chính những
giải thích sau đó của thiên thần Gabriel xác nhận điều này. Thánh Anselmô đã
nói: Tin là lý trí đi tìm sự hiểu biết. Nhưng rồi thiên thần đã cho một dấu
chỉ: Bà Êlisabét có thai được 6 tháng rồi.
4. Là
nữ tỳ của Chúa, Đức Maria gắn bó với chương trình của Thiên Chúa và diễn tả ao
ước được thấy chương trình đó được thể hiện. Mẹ đón nhận ơn gọi của mình không
mù quáng cũng không theo cách chẳng đặng đừng, nhưng với ý thức sáng suốt về
nhiệm vụ của mình và tự do quyết định đi theo ý muốn của Thiên Chúa. “Trong các
công trình của Người, Thiên Chúa luôn muốn sử dụng các dụng cụ… Thiên Chúa,
Đấng đã ban cho chúng ta có ý chí tự do, muốn rằng chúng ta phục vụ Người cách
tự do trong tư cách là những dụng cụ, bằng việc ý chí của ta ưng thuận ý muốn
của Người, giống như cách của Mẹ rất thánh khi Mẹ nói: «Tôi đây là nữ tỳ của
Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời thiên sứ nói»” (Thánh Maximilianô
Kolbe)
5.
Lời đầu tiên được ngỏ với Maria trong Tân Ước là một lời mời gọi vui
tươi: “Mừng vui lên!”. Một lời chào như thế được liên kết với biến cố Đấng Cứu
Thế ngự đến. Với Maria là người đầu tiên được loan báo một niềm vui sau
đó sẽ được loan báo cho toàn dân; Mẹ tham dự vào đó theo một cách thức
và trong một mức độ phi thường. Nơi Mẹ, niềm vui của Israel cũ được tập
trung và được viên mãn; nơi Mẹ, niềm hạnh phúc thời đại thiên sai dứt khoát nổ
tung ra. Niềm vui của Đức Trinh Nữ Maria đặc biệt là niềm vui của “phần dư tồn”
Israel (Is 10,20t), là những người
nghèo đang chờ đợi ơn cứu độ của Thiên Chúa và trải nghiệm lòng trung thành của
Người (Đức Gioan-Phaolô II).
Lm FX Vũ Phan Long, ofm