CHÚA NHẬT 7
PHỤC SINH B
LỄ THĂNG THIÊN
Cv 1,1-11 ; Ep
1,17-23 ; Mc 16,15-20
GÓP PHẦN KIẾN
TẠO THIÊN ĐƯỜNG ĐỜI SAU NGAY TỪ HÔM NAY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án”.
(17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng
mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có
uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên
những người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự
bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông đồ sứ mạng
tiếp tục công việc
loan báo Tin Mừng Nước Trời cho
mọi loài thụ tạo, để ai tin và chịu phép rửa thì được tái sinh làm
con Thiên Chúa và được sống đời đời. Còn những
kẻ không tin thì sẽ bị kết án. Chúa còn hứa ban quyền làm những dấu lạ cho các Tông
đồ. Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì đi rao giảng Tin Mừng khắp
nơi với sự trợ giúp của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công
bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng
cho sứ mạng tông đồ. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà
Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người đã trao sứ mạng “loan báo Tin mừng
cho mọi loài thụ tạo” cho các Tông đồ. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng (
Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin hạnh
phúc”. Có thể
hiểu Tin Mừng Đức Giê-su theo hai nghĩa: Một là “Tin Mừng được Đức
Giê-su công bố. Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ
nhờ mầu nhiệm chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ
tạo: Mọi loài thọ tạo
mang ý nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa
sẽ biến đổi trần gian nên Trời Mới Đất Mới vào ngày
Tận Thế (x. Kh 21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức
Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha
tội và ơn tái sinh để nên người mới và nên dưỡng tử của Thiên Chúa.
Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời. + Còn ai không tin thì sẽ bị kết án: Thực ra, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để
lên án, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga
3,17). Còn kẻ không tin thì đã bị lên án
rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi ơn cứu độ. Họ giống như cành nho bị tách
lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su, nên sẽ khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời ở đời sau (x. Ga 15,5-6). +Còn
những người không tin Đức Giê-su nhưng không do lỗi của họ thì có được
hưởng ơn cứu độ không?: Những ai tuy không biết Đức
Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì “Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi
linh hồn”. Chỉ những kẻ cố tình theo ma
quỷ làm điều gian ác và cố chấp không hồi tâm sám hối, thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục, nơi dành cho các đầy tớ bất trung, “những kẻ đạo đức
giả. Ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (x. Mt 24,51a), cũng là nơi “dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41).
- C 17-18: +Đây là những
dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi
thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các
thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền
trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Chúa Giê-su Phục Sinh đã trao lại cho các ông quyền làm các dấu lạ
ấy. +Nhân
danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ
sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng
sao. Và nếu họ đặt tay lên những người bệnh, thì những người này sẽ
được mạnh khỏe: Khi viết
Tin Mừng (khoảng năm 65), các Tông đồ đã
làm nhiều dấu lạ. Chẳng hạn:
Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi nhận được đầy ơn Thánh Thần, các Tông đồ đã nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng
ngự xuống gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ
(x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân qua các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay
trên bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ
được lành bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn
tông đồ Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra
(x. Cv 14,8-10) ; Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay
và cắn mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện
và đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc
áo ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà
thần phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20: +Chúa Giê-su được
rước lên trời: Như Ê-li-a
thời Các Vua đã “lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,11), thì thân xác Chúa Giê-su Phục
Sinh cũng được
rước lên trời trên các tầng mây.
Từ nay Người
không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống nữa. +Và
ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức
Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14; Cv 2,34), được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với
quyền cai trị vũ trụ (x. Mt 28,18),
ngang hàng với Thiên Chúa (x.
Ep 1,21). Công Nghị Do Thái đã
hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giê-su vì cho Người
chỉ là phàm nhân mà dám phạm thượng khi nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa (x.
Mc 14,62-64). Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa không có nghĩa là lìa
xa con người, nhưng có nghĩa: Người được tôn vinh lên ngang hàng với Thiên
Chúa. Là Thiên Chúa nhập thể làm người, là “Em-ma-nu-en” nghĩa là “Thiên Chúa ở
cùng chúng ta”. + Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa Giê-su, đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su
tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận
cùng trái đất (x. Cv 1,8). +Có Chúa cùng hoạt động với các
ông...: Từ đây, Chúa Ki-tô
sẽ luôn hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Chúa Phục Sinh đã hiện ra thổi hơi ban Thần Khí cho các
Tông đồ để ban quyền tha tội (x Ga 20,21-22), và vào lễ
Ngũ Tuần, Thần Khí hay Thánh Thần đã được đổ xuống trên Cộng Đoàn Hội Thánh Sơ
Khai để giúp Hội Thánh chu toàn sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng khắp thế
gian (x. Cv 2,18).
4. CÂU HỎI:
1) Mầu nhiệm Phục Sinh có tầm
quan trọng thế nào đối với sứ mạng được sai đi? Các Tông đồ được
Chúa Phục Sinh sai đến với những người nào?
2) Tin Mừng của Đức Giê-su có những ý nghĩa thế
nào?
3) Để được hưởng ơn cứu độ của Đức Giê-su, đòi ta phải có những điều kiện nào?
4) Những ai chắc chắn sẽ bị
kết án sa hỏa ngục? Những người tuy chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành có được Chúa
ban ơn cứu độ không?
5) Trong thời gian giảng đạo, khi
sai môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông
những quyền nào?
6) Trườc khi về trời, Chúa Phục Sinh đã trao sứ vụ loan Tin Mừng cho các Tông đồ kèm theo những gì?
7) Lời Chúa tiên báo về các dấu lạ đi kèm với
lời rao giảng
của các Tông đồ đã được ứng nghiệm thế nào trong thời Giáo Hội Sơ Khai?
8) Trong thời Cựu Ước, ngôn sứ nào đã được rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào
cũng được lên trời? Mầu nhiệm thăng thiên của Chúa Giê-su khác với mầu nhiệm mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao?
9) So sánh hai lệnh truyền của Chúa Giê-su trước khi lên trời trong Tin Mừng Mat-thêu “Hãy đi và làm cho muôn dân trở
thành môn đệ...” (x Mt 28,19), và trong Công vụ Tông đồ “Hãy nên chứng nhân của Thầy...”
(x Cv 1,8) giống và khác nhau thế nào?
10) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su có còn hiện diện trong Hội thánh nữa không?
11) Chúa Phục Sinh thổi ban Thần Khí cho các Tông đồ nhằm
mục đích gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
Chúa Giê-su
được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt
động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời
các ông rao giảng (Mc
16,19-20).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Phải chăng
không có Thiên Đàng ?
Do hiểu Thiên đàng chỉ là một nơi cực lạc về vật chất nên
vào ngày 5.9.1961 Thủ tướng Liên xô cũ là ông KÚT-XẾP (Kroutchev) đã nói với ký
giả SUN-BÉC-GƠ (Sulberger) rằng : ”Để điều tra trên trời có Thiên đàng thật như
người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không trung: anh GIU-RI
GA-GA-RIN (Youri Gagarine). Anh này đã đi vòng quanh trái đất mà cũng chỉ quan
sát thấy những bóng đen dầy đặc, chứ không có gì như thiên đàng cả. Sau
đó, chúng tôi đã suy nghĩ và gửi thêm một thám tử khác nữa lên là GIƠ-MEN
TI-TỐP (German Titov). Chúng tôi đã bảo anh ta rằng : ”Hãy bay lâu hơn một chút
nữa. Có lẽ Ga-ga-rin chưa trông thấy thiên đàng, vì chàng ta chỉ mới bay có một
tiếng rưỡi đồng hồ thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho kỹ”. Ti-tốp đã ra đi
rồi sau khi trở về, anh đã xác nhận lời tuyên bố của Ga-ga-rin: ”Hư vô ! Chỉ có
hư vô!” là đúng. Rồi cuối cùng Kút-xếp xoa tay kết luận: ”Cho nên chúng tôi
không tin có đời sau”. (Information catholique ngày 1.10.1961, tr 14).
Tuy nhiên đối
với những người không có đức
tin vào Thiên
Chúa và vào thế giới siêu nhiên,
thì làm sao có thể nhìn thấy Thiên Chúa hay thấy Thiên đàng bằng cặp mắt thường được?
2) Thiên đàng
hỏa ngục hai bên:
Cách đây ít lâu thập niên 50, ở miền Nam Việt Nam các trẻ
em thường chơi trò mà nội dung có ý nghĩa giáo dục rất lớn về hạnh phúc Thiên
Đàng và bất hạnh của Hỏa Ngục như sau:
Hai em được đề cử sẽ đứng đối diện với nhau và giơ hai
cánh tay lên nắm vào nhau để làm thành cánh cửa Thiên Đàng. Các em khác thì xếp
hàng một, người sau đặt hai bàn tay lên vai người trước và nối đuôi nhau đi qua
cánh cửa Thiên Đàng, trong lúc mọi người chơi đều hát một bài ca đồng dao theo
cung giọng chung như sau:
“Thiên Đàng địa ngục hai bên,
Ai khôn thì lại, ai dại thì qua.
Đêm nằm nhớ Chúa, nhớ Cha,
Đọc kinh cầu nguyện, kẻo sa linh hồn.
Linh hồn phải giữ linh hồn,
Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”.
Cuộc chơi bắt đầu khi các em vừa hát bài đồng dao vừa di
chuyển chầm chậm chui qua cửa Thiên Đàng. Nhưng khi bài hát gần hết, các em sẽ phải
đi nhanh hơn. Khi hát tới câu “Đến khi mình chết được lên Thiên Đàng”, thì cánh
cửa Thiên Đàng do hai em trấn giữ sẽ đóng sập xuống. Những em chưa qua được cửa
Thiên Đàng đương nhiên sẽ bị kẹt lại trong hỏa ngục, và phải chịu hình phạt như
hít đất, thụt dầu hay nhéo lỗ tai, v.v…
3) So sánh Thiên đàng và hỏa ngục
giống và khác nhau thế nào?
Ngày xưa có ông vua triệu vời một đạo sĩ vào triều để hỏi
xem Thiên Đàng và Địa Ngục là có thật hay chỉ là sự hoang đường mê tín. Đạo sĩ
mời vua nằm ngủ đầu dựa trên chiếc gối có phép mầu. Vua vừa nằm ngủ liền xuất hồn
ra khỏi xác đi theo vị đạo sĩ, vào trong một căn phòng lớn. Giữa phòng có đặt một
nồi cháo thật to đáng bốc khói, bốc ra mùi cháo thơm phức. Chung quanh nồi cháo
có rất đông người ốm đói đang chen lấn nhau rất mất trật tự. Mỗi người cầm trên
tay một cái muỗm có cán dài quá khổ. Ai nấy đều cố giành cho mình được quyền
vào múc cháo trước. Nhưng vì cán muỗm quá dài, nên họ chỉ múc được cháo mà
không thể đưa muỗm cháo tới gần miệng để ăn. Họ tranh cãi nhau ồn ào như một
cái chợ. Có kẻ còn dùng muỗm đánh nhau làm cháo đổ văng tung tóe. Vua lắc đầu
ngao ngán: “Đúng thật là hỏa ngục!”
Vua lại thấy hồn mình đi theo đạo sĩ bước vào căn phòng
lớn thứ hai, cũng có nồi cháo thật to đang bốc mùi cháo thơm phức như vậy và có
rất đông người đứng gần đó. Mỗi người đều cầm một cái muỗm có cán khá dài.
Nhưng những người ở đây lại xếp hàng trật tự để lần lượt chờ tới phiên mình.
Khi múc được cháo, họ không thể đưa vào miệng mình nên đã đưa muỗm cháo cho
người ở bên cạnh ăn. Vị biết nhường nhịn và quảng đại chia sẻ cháo cho nhau nên
mọi người đều được ăn no. Ai nấy đều cảm thấy vui và bầu khí trong phòng thật
an bình hạnh phúc. Vua thấy vậy liền gật gù và nói: “Đây thật là một Thiên Đàng
hạnh phúc!”
Câu chuyện trên cho thấy Thiên Đàng và Hỏa Ngục nói chung
rất giống nhau. Chỉ khác nhau ở chỗ người ta có biết nghĩ đến nhau và biết cách
ứng xử với nhau bằng tình thương hay không. Tình thương phải được thể hiện qua
thái độ biết nghĩ đến nhau, nhẫn nhịn chịu đựng nhau và hay tha thứ cho nhau, biết
tôn trọng lẫn nhau, tránh thói ích kỷ và biết khiêm tốn phục vụ và làm vui lòng
nhau hay không thôi.
3. THẢO LUẬN:
1) Thiên Đàng là gì? 2) Thiên Đàng ở đâu? 3) Ta phải làm gì ngay từ bây giờ để sau này sẽ được sống an vui hạnh phúc với Chúa trên Thiên Đàng?
4. SUY NIỆM:
1) Thiên
Đàng hay Địa Đàng là gì?:
- Thiên Đàng (Hy ngữ
là Pa-ra-dei-sos) nghĩa là Hoa viên
hay khu vườn đầy hoa thơm cỏ lạ (x St 2,8). Theo Kinh Thánh, Địa đàng là một khu vườn hoan lạc,
nơi con người được sống
trong bình an hạnh
phúc. Đầu
tiên Thiên Chúa đã dựng nên một khu vườn có nhiều hoa trái tươi xinh, có suối
nước trong và rất nhiều thú vật hiền hòa đều sinh sống bình an hòa thuận với
nhau. Rồi đến lượt ông bà nguyên tổ Ađam Evà được Chúa dựng nên và nhận làm nghĩa
tử. Chúa cho hai người ở trong Vườn Địa Đàng (Eđen), và trao cho họ nhiệm vụ
coi sóc canh tác vườn (Stk 2). Nhưng Nguyên tổ Ađam Evà do tội kiêu
ngạo, đã cãi lệnh truyên của Thiên Chúa, nghe lời cám dỗ của con rắn ma quỷ để ăn
quả cây Chúa cầm, hầu được theo sở thích của mình và không bị lệ thuộc vào Chúa
nữa. Do phạm tội Tổ Tông này nên hai ông bà đã
bị truất quyền làm nghĩa tử, bị đuổi ra khỏi Địa đàng, phải vào sống trong thung lũng trần gian đầy gai góc, nước mắt đau khổ với nhiều tai ương hoạn nạn bệnh tật và cuối cùng còn phải
chết (x. St
3,7.16-19).
- Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ mặc loài người chết trong tội lỗi muôn đời, nên đã hứa ban một Đấng Cứu Thế thuộc
dòng dõi người nữ đến, với nhiệm vụ chịu hình phạt chịu
đóng đinh chân tay vào thập giá để chịu chết đền tội thay cho loài người, hầu khôi phục lại tình trạng hoan lạc và hạnh phúc đời đời cho loài người (x. St 3,15). Đức Giê-su đã
mở ra một con đường mới để dẫn đưa loài người về giao hòa với Thiên Chúa. Người
biến trần gian là nơi lưu đầy trở
thành Nước Trời bình an hạnh
phúc, trở lại tình trạng Thiên Đàng ban đầu khi mới được
tao thành (x. Ed 36,35;
Is 51,3), trở thành “Trời Mới Đất Mới, nơi
công lý ngự trị” (2 Pr 3,13; Kh 21,1), trở thành Miền Đất Hứa cho dân It-ra-en
Mới là Hội Thánh trở về quê hương đời sau.
2) Thiên Đàng
ở đâu?
- Thiên Đàng là nơi Thiên Chúa ngự trị, nơi đầy hoan lạc
bình an và hạnh phúc. Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Phi-lip-phê đề cập đến
quê hương Thiên Đàng như sau: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng
lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng
khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của
chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
- Thiên Đàng không phải ở đâu xa, mà ở đâu có tình yêu,
có hòa bình, không chém giết hận thù nhau, mọi người sống chung hòa hợp và hạnh
phúc thì nơi đó là Thiên Đàng như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm về triều đại hòa
bình của Đấng Thiên Sai:
“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ, bò
tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái
kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như
bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay
vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của
Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng
biển” (Is 11,6-9).
Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng đời
sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng
chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh
21,4).
Tóm lại, Nước Trời hay Thiên Đàng có thể không ở đâu xa,
mà ở trong lòng mỗi người, trong cộng đoàn ta đang sinh hoạt. Thiên Đàng hay
Triều Đại của Thiên Chúa không phải thuộc vật chất nên chúng ta không trông thấy
được như lời Đức Giê-su nói: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có
thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này!” Hay “Ở kia kìa!”, vì
này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). Ai yêu thương thì
người ấy đang sống trong Nước Trời hay đang hưởng hạnh phúc Thiên Đàng vì
“Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,16). Còn ai không yêu thương sẽ bị loại ra
ngoài Nước Trời, “Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 13,50).
3) Kiến tạo Thiên
đàng đời sau bằng việc gieo việc tốt yêu thương từ đời này:
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện hữu
của Thiên Chúa. Một hôm anh tìm đến một cha Bề Trên có tiếng là đạo đức của một
dòng tu trong vùng và hỏi cha rằng:
– Thưa cha, cha có tin có Thiên Chúa không ?
Cha Bề Trên trả lời:
– Có chứ. Tôi tin.
– Nhưng dựa vào đâu mà cha lại tin như thế ?
– Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nghiệm
được Ngài ở trong tôi mỗi ngày.
– Nhưng làm sao mà cha cảm nhận được như thế ?
– Khi chúng ta yêu thì chúng ta sẽ cảm nghiệm được Thiên
Chúa, và những nỗi hồ nghi trong ta sẽ tan biến như những giọt sương mai sẽ tự
nhiên tan biến dưới ánh nắng mặt trời.
Chàng thanh niên suy nghĩ một lúc rồi hỏi tiếp :
– Xin cha chỉ rõ cho con phải làm gì để tin vào sự hiện
hữu của Thiên Chúa?
– Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố
gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không
ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ ngày
càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn.
Cha bề trên chẳng nói gì khác hơn điều Tông Đồ Gio-an đã
viết như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt
nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra và người ấy
biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
là Tình yêu”. Nhà danh họa Van Gogh cũng nói: “Cách tốt nhất để biết Thiên
Chúa là hãy yêu nhiều. Hãy yêu bạn mình, yêu vợ mình, yêu một cái gì đó. Rồi bạn
sẽ thấy mình đang đi đúng đường dẫn tới chỗ biết Thiên Chúa”.
Có một vực thẳm ngăn cách giữa việc nhận biết Chúa và yêu
mến Chúa. Không yêu Chúa thì sẽ không nhận biết Ngài. Nhưng khi chúng ta yêu
thì vực thẳm này được lấp đầy ngay. Yêu Chúa là nhận biết Chúa. Nơi nào có tình
yêu thì nơi đó có Chúa và là Thiên Đàng, cũng như nơi nào có Chúa thực sự thì
nơi đó chắc chắn sẽ có tình yêu đang ngự trị và trở thành Thiên Đàng.
4) Hiện nay công
trình cứu chuộc của Chúa cần chúng ta góp phần hoàn tất:
Công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa gồm hai phần:
Đức Giê-su đã hoàn tất phần đầu thuộc về Thiên Chúa là nhập thể và mở ra con
đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” để cứu độ nhân loại. Nhưng việc cứu độ
chỉ hoàn tất với sự cộng tác của các tín hữu với ơn Thánh Thần để nhận được ơn
tha tội và tích cực cứu độ anh em.
Vì thế, trước khi về trời, Đức Giê-su đã nhắc lại cho các
môn đệ sứ vụ loan báo Tin Mừng để làm cho chương trình cứu độ được hoàn thành
nơi mỗi người tín hữu, rồi mọi người cùng góp phần cải thiện môi trường mình
đang sống ngày một sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, để khu phố, xí nghiệp,
cơ quan… mình đang làm việc trở thành Thiên Đàng yêu thương, mang lại bình an
hạnh phúc là dấu chỉ sau này chúng ta sẽ được hạnh phúc đời đời trên Thiên Đàng.
Chúa Phục Sinh đã trao trách nhiệm cho các Tông Đồ cũng
là cho mỗi tín hữu hôm nay là phải làm chứng nhân cho tình thương của Chúa:
“Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền
Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Vậy gieo yêu
thương để làm chứng cho Chúa hôm nay, đòi mỗi người chúng ta phải tha thứ, nhịn
nhục, thăm viếng, giúp đỡ những người khó ưa sống chung trong gia đình, trong
các đoàn thể của giáo xứ, nơi trường học, chợ búa, xí nghiệp, cơ quan, và bất
cứ nơi nào chúng ta hiện diện…
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi Chúa về
trời, sứ thần đã nhắc nhở các môn đệ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao
còn cứ đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và
được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên
trời (Cv 1,10-11). Lạy Chúa, bấy lâu nay chúng con đã lơ là với lệnh
Chúa truyền loan báo Tin Mừng. Chúng con thường chữa lỗi mình rằng: Tôi
lo cho mình chưa xong, làm sao dám lo cho người khác! Tôi phải tối ngày
lo kiếm tiền nuôi gia đình nên không có giờ rảnh để tham gia sinh hoạt
hội đoàn; Chúng con thường nhát đảm sợ hãi khi đối diện với những
lời chống đối hay chối từ... nên đến hôm nay chúng con vẫn chưa làm
được gì cho Chúa. Xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng
một đời sống vị tha bác ái, luôn nghĩ đến tha nhân. Xin cho chúng con
biết chiếu ánh sáng của Chúa ra trước mặt người đời và trở nên
muối ướp thiên hạ khỏi hư hỏng. Xin cho chúng con luôn sống chan hoà,
như nắm men được hòa lẫn vào ba đấu bột, để cả khối bột là học
đường, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm, giáo xứ... được dậy lên men tình
yêu mến Chúa.
X)
HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM