CHÚA NHẬT LỄ LÁ

Is 50,4-7 ; Pl 2,6-11 ; Mc 11,1-11

GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TIN YÊU HẠNH PHÚC

 

I.    HỌC LỜI CHÚA

 

1. TIN MỪNG: Mc 11,1-11:

(1) Khi Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh tháo dây ra và đem nó về đây. (3) Và nếu có ai bảo: “Tại sao các anh làm như vậy?” thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại đây ngay”.(4) Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền tháo dây lừa ra. (5) Mấy người đứng đó nói với các ông: “Các anh tháo lừa ra làm gì vậy?” (6) Hai ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. (7) Hai ông đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức Giê-su cỡi lên. (8) Nhiều người cũng trải áo họ xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. (9)  Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! (10) Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” (11) Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.

2. Ý CHÍNH:

Phụng vụ Lễ Lá hôm nay gồm hai phần: Rước Lá (x Mc 11,1-11) và Thánh Lễ với Tin Mừng về sự Thương Khó của Chúa Giêsu (Mc 14,1-15,47)

- Phần thứ I (Mc 11,1-11): Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Thiên Sai, được dân chúng đi theo và hoan hô như đón mừng một ông Vua khải hoàn vào thành để lên làm vua. Nhưng Đức Giê-su không đáp ứng khát mong của dân Do Thái để làm vị Vua Thiên Sai mang tính trần thế, mà Người chọn thái độ hiền hòa của vị Vua Mục Tử khi chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên ngựa chiến.

- Phần thứ II (Mc 14,1-15,47): Đức Giê-su chính là Tôi Tớ đau khổ của Đức Chúa. Người đến không phải để đòi người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta thể hiện qua việc rửa chân cho môn đồ và chấp nhận đi con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh. Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng Đức Tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng bằng việc chấp nhận cái chết thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống muôn đời cho chúng ta.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1: + Núi Ô-liu: hay Núi Cây Dầu, nằm về phía Đông thành Giê-ru-sa-lem. Tại đây Đức Giê-su đã trải qua giờ phút hấp hối trước khi bị bắt (x. Mc 14, 26-50), và sau khi sống lại, Người đã ban huấn lệnh cuối cùng trước khi lên trời cũng tại núi này (x. Cv 1,12).

- C 2: + Một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ: Đức Giê-su dùng lừa con thay vì lừa mẹ. Lừa con chưa bị ai cỡi, nên xứng đáng được Đức Giê-su sử dụng trong nghi thức khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem để lên làm Vua. Người cưỡi lừa chứ không cưỡi ngựa để cho thấy Người là ông Vua hòa bình chứ không lên làm vua bằng sự chinh chiến.

- C 3: + Chúa” cần đến nó: “Chúa” hay “Chúa thượng” (Ky-ri-os) và Đức Chúa (A-do-nai), là hai tước hiệu dành để kêu cầu Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai. Khi tự gán cho mình tước hiệu “Chúa Thượng” (x. Tv 110,1-7), Đức Giê-su muốn nói với người Do Thái rằng: Tuy là “Con Đa-vít”, Người vẫn cao trọng hơn Đa-vít và có trước ông (x. Mt 22,43-45). Thánh Phao-lô cũng đã tuyên xưng: “Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9). Tước hiệu “Ky-ri-os” (“Chúa Thượng”), ám chỉ quyền tối cao của Đức Ki-tô ngang hàng với Thiên Chúa (x. Pl 2,10). + Người sẽ gởi lại đây ngay”: Đức Giê-su đã liên lạc trước để mượn lừa của một người quen và cho mật khẩu cho hai bên khi trao và nhận lừa. Người cũng hứa khi dùng lừa xong sẽ mang trả lại.

- C 4-8: + Nhiều người trải áo họ xuống mặt đường... Chặt nhành lá ngoài đồng mà rải: Bên Cận Đông, dân chúng thường trải áo hay chặt cành lá trải trên đường để tỏ lòng tôn kính Đức Vua hay vị tướng chiến thắng từ mặt trận trở về (x 2V 9,13). Ở đây, dân chúng đón rước Đức Giê-su như một ông Vua Mê-si-a. Họ hy vọng Người đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma.

- C 9-11: + Hoan hô!: hay Ho-san-na. Chữ này bắt nguồn từ chữ: Ho-si-a-nah” nghĩa là “Xin ban ơn cứu độ” (x. Tv 118,25-26). Lời tung hô: “Ho-san-na!”, nghĩa là “Hoan hô!” hay “vạn tuế!”. (Mt 21,9). + Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta: Vị Vua Thiên Sai mà dân chúng đang mong chờ là con cháu thuộc hoàng tộc Đa-vít, có sứ mạng tái lập vương quyền của Đa-vít. Chính vì quan niệm sai lầm như vậy, nên không lạ gì khi mấy ngày sau, đám đông dân chúng lại vào hùa với bọn đầu mục Do Thái để đòi quan tổng trấn Phi-la-tô tha Ba-ra-ba là kẻ cầm đầu phiến quân và kết án tử hình cho Đức Giê-su, vì Người không đáp ứng tiêu chuẩn Vua cầm quân chiến đấu với người Ro-ma như ý họ muốn (x. Mc 15,9-14).

4. CÂU HỎI: 1) Trong Tin Mừng đọc trước khi rước lá, Đức Giê-su đã làm gì để cho thấy Người là Đấng Thiên Sai, nhưng là vị vua mục tử hiền lành? Còn dân Do thái lại đang trông mong một Vua Thiên Sai như thế nào? 2) Bài Thương Khó trong Thánh Lễ chứng minh Đức Giê-su chính là Ngươi Tôi Tớ Đau Khổ Của Đức Chúa qua những sự kiện gì? 3) Tại sao Đức Giê-su lại cưỡi lừa con thay vì lừa mẹ khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem? 4) Khi dùng lừa khải hoàn vào thành, Đức Giê-su đã thực hiện lời tuyên sấm của vị Ngôn Sứ nào? 5) Khi tự xưng là “Chúa” trong câu nói “Thì cứ nói là Chúa cần đến nó”, Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì về thân thế của Người? 6) Qua sự kiện hai môn đệ thấy mọi việc xảy ra đúng như lời Đức Giê-su đã nói trước cho thấy Người là ai? 7) Khi tri áo choàng xuống mặt đường để đón rước Đức Giê-su, dân chúng thể hiện lòng tin thế nào về Người? 8) Hô-san-na nghĩa là gì? 9) Tại sao dân chúng mới hoan hô Đức Giê-su bằng câu “chúc tụng triều đại vua Đa-vít”vào Chủ Nhật Lễ Lá, mà đến sáng Thứ Sáu lại đòi Phi-la-tô đóng đanh Người vào thập giá?

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

 

1. LỜI CHÚA: Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời !”(Mc 11,9).

2. CÂU CHUYỆN: CHẤP NHẬN HY SINH VÌ DANH ĐỨC GIÊ-SU.

Linh mục G. Par-ker, quản nhiệm giáo xứ thánh Giu-se giáo phận Nor-wich ở Con-nec-ti-cut Hoa Kỳ, đã trả lại số tiền 5.000 đô-la do nghị sĩ Chris-to-pher J.Dodd đã giúp đỡ trường học của giáo xứ, để phản đối vị nghị sĩ Công giáo này, đã bỏ phiếu ủng hộ các dự luật về phá thai. Cha Par-ker đã gọi số tiền Dodd ủng hộ ngôi trường của giáo xứ là "tiền vấy máu các thai nhi vô tội" và không ngần ngại gọi ông nghị sĩ này là "Môn đồ của Tử Thần". Việc làm của cha khiến nhiều người cảm kích, dân chúng khắp nơi khi nghe biết đã gởi về giúp đỡ cho trường học của giáo xứ số tiền lên tới 61.000 đôla. Nhiều tổ chức bênh vực sự sống và nhiều cơ quan truyền thông cũng bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với ngài.

3. THẢO LUẬN: 1) Bạn đánh giá thế nào về hành động của linh mục Par-ker trong câu chuyện trên? 2) Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Đức Giê-su đã khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một ông vua thế nào? 3) Để góp phần kiến tạo Vương Quốc Yêu thương hạnh phúc, chúng ta phải làm gì cụ thể để đẩy lùi giặc nghèo đói, lạc hậu, bất công, dối trá, vô cảm, bất nhân... Cụ thể là xua trừ các tệ nạn sì-ke ma túy, cờ bạc, rượu chè, đĩ điếm, cướp giật... ra khỏi môi trường ta đang sống?

4. SUY NIỆM:

Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá hôm nay là sự khởi đầu của Tuần Thánh. Sau khi diễn lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, chúng ta sẽ cùng bước theo Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó của Người tại thành Giê-ru-sa-lem:

1) ĐỨC GIÊ-SU KHẢI HOÀN VÀO THÀNH NHƯ MỘT VỊ VUA THIÊN SAI:

Qua việc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã thực hiện lời tiên báo của ngôn sứ Gia-ca-ri-a về Đấng Mê-si-a cỡi lừa tiến vào Giê-ru-sa-lem. Điều này cho thấy Người chính là Đấng Mê-si-a Thiên Sai được các ngôn sứ tiên báo sẽ đến. Vào thời bấy giờ, nhiều người Do Thái đang trông mong Đấng Thiên Sai đến thiết lập một Vương Quốc giống như thời vua Đa-vít Sa-lô-môn thời xưa, bằng việc lãnh đạo dân Do Thái đứng lên đánh đuổi quân Rô-ma ngoại xâm ra khỏi bờ cõi đất nước. Nhưng khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem trên lừa con thay vì trên mình ngựa chiến, Đức Giê-su lại cho thấy Người là Vua Mê-si-a hòa bình, đến để thiết lập một Vương Quốc Yêu Thương Hạnh Phúc.

2) ĐẶC ĐIỂM CỦA VUA THIÊN SAI GIÊ-SU:

- Là Người Tôi Tớ Đau Khổ của Thiên Chúa: Người đến như một Tôi Tớ khiêm hạ sẵn sàng gánh lấy bệnh tật tội lỗi của loài người, cam chịu nhục hình đau khổ để đền tội cho loài người như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm (x. Is 53,2-12). Đức Giê-su chấp nhận con đường “Qua đau khổ thập giá để vào trong vinh quang phục sinh” (x. Lc 24,26).

- Là Vua Mục Tử Tốt Lành: Người không đòi được hầu hạ, nhưng để phục vụ chăn dắt và sẵn sàng thí mạng để bảo vệ đàn chiên (x. Mt 20,28), cụ thể qua việc Người quỳ gối rửa chân cho môn đồ và sẵn sàng chịu chết để chiên được sống đời đời (x. Ga 10,11).

- Là Vua xây dựng Hòa Bình: Khi khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su ngồi trên con lừa biểu tượng hòa bình, thay vì ngồi trên ngựa chiến (x. Mc 11,7-10). Điều đó cho thấy sứ mạng của Người không phải để chinh chiến giải phóng về mặt chính trị như các đầu mục dân Do Thái trông mong, nhưng để thiết lập một Vương Quốc Hòa Bình, trong đó mọi người yêu thương nhẫn nhịn tha thứ cho nhau và giúp nhau ngày càng nên hoàn thiện.

- Là Vua Tình Yêu: Người đến để thiết lập một Vương Quốc Tin Yêu, trong đó mọi người đều là con của một Cha Chung là Thiên Chúa, đều là môn đệ của một Tôn Sư tối cao, đều đi theo một Thủ Lãnh duy nhất trên đường về nhà Cha là Đạo Công Giáo (x. Mt 23,8-10). Người còn thể hiện tình yêu tột đỉnh khi lập phép Thánh Thể để ban Mình Máu Người làm lương thực nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu, và sẵn sàng hy sinh tính mạng, chịu chết đau thương trên cây thập giá để đền tội thay và sống lại để phục hồi sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.

- Là Vua đến cho chiên được sống dồi dào: Để kiến tạo Nước Trời hay Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã đề ra một bản Hiến Chương gọi là Tám Mối Phúc, để mời gọi mọi người gia nhập vào Nước ấy (Mt 5,1-12). Để được gia nhập Nước Trời là Hội Thánh hôm nay và Thiên Đàng mai sau, chúng ta cần sống tinh thần Tám Mối Phúc Thật như sau: Có tinh thần nghèo khó, hiền lành, bị đau buồn khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết thương xót người khác, có lòng trong sạch, sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin.

- Là Vua Thẩm Phán xét xử công minh: Đức Giê-su nêu gương tin yêu Chúa Cha và dạy các môn đệ thực thi tình yêu cụ thể đối với tha nhân. Đến ngày tận thế, Người sẽ tái lâm để làm Vua Thẩm Phán xét xử mọi người tùy theo các việc chia sẻ bác ái cụ thể họ đã làm hay không làm đối với những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi… là hiện thân của Người (x. Mt 25,34-40).

3) CON ĐƯỜNG THƯƠNG KHÓ CỦA VUA GIÊ-SU:

Chỉ có một con đường duy nhất đưa chúng ta lên trời là đường Giê-su như Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Con đường của Đức Giê-su chọn theo thánh ý Thiên Chúa là đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi, là Đường Thánh Giá như lời Chúa Giê-su phán: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại” (Mc 8,31).

 Đức Giê-su đã chấp nhận đau khổ để cho nhân loại được hạnh phúc, chấp nhận chịu chết để mọi người chúng ta được sống đời đời. Vì thế, đối với Đức Giê-su: đau khổ và chết cho người mình yêu là cách tuyệt hảo nhất để biểu lộ tình yêu tột đỉnh: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13). Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ tình yêu tuyệt hảo này trong cuộc sống đời thường của mình như lời Chúa dạy: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Yêu thương trước hết là yêu người thân của mình như cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… Tiếp đến yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù ghét bách hại chúng ta (x. Mt 5,44). Yêu thương cụ thể là năng nghĩ đến người yêu và làm vui lòng họ, sẵn sàng chia sẻ những gì mình có, hy sinh chịu thiệt cho người yêu được hạnh phúc…

4) TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG VƯƠNG QUỐC TIN YÊU HẠNH PHÚC:

Mỗi tín hữu chúng ta cần tích cực xây dựng Nước Trời là Hội Thánh ở trần gian bằng việc năng tham dự các nghi lễ phụng vụ, các cuộc ngắm nguyện, đi đàng thánh giá chung cộng đoàn…  Tiếp đến, chúng ta cần xây dựng Vương Quốc yêu thương của Chúa bằng việc sống Tám Mối Phúc, nhất là thực hành bác ái yêu thương cụ thể là phục vụ Đức Giê-su bị bỏ rơi trên cây thập giá, hiện thân qua những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi. Đây là điều kiện để trong ngày tận thế Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ đón nhận chúng ta vào Vương Quốc Thiên Đàng đời sau.

Để nên giống Đức Giê-su, mỗi ngày mỗi người chúng ta cần động viên nhau chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Cụ thể là chiến đấu chống lại các sự gian ác, nghèo đói, bất công và thù hận trong xã hội; Tránh kết án và loại trừ lẫn nhau, nhưng sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của tha nhân và an ủi những người đau khổ bất hạnh để làm chứng cho Đức Giê-su, hầu Vương Quốc Hội Thánh ngày một lan rộng đến tận cùng thế giới như lời Chúa dạy.

5. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong ngày Lễ Lá hôm nay, Chúa đã chọn ngồi trên lưng lừa thay vì trên mình ngựa chiến để khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem. Qua đó Chúa muốn biểu lộ sứ mạng của Chúa là đến thiết lập một Triều Đại Thiên Sai hòa bình. Chúa đến không phải để thống trị, nhưng để phục vụ; để ban bình an và chia sẻ vui buồn với loài người chúng con. Xin cho chúng con luôn biết quên mình để nghĩ đến người khác, biết cư xử bao dung hiền hòa với tha nhân, cho chúng con biết nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân và tha thứ vô điều kiện cho những xúc phạm của kẻ khác đối với chúng con... để chúng con xứng đáng là con ngoan của Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của Chúa và nên anh chị em của mọi người trong Vương Quốc Hòa Bình của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH-HHTM

 

 


Về Trang Suy Niệm Chủ Nhật Năm B