CHÚA NHẬT II
MÙA CHAY B
St
22,1-2.9a.10-13.15-18 ; Rm 8,31b-34 ; Mc 9,2-10
VÂNG NGHE LỜI CHÚA
ĐỂ ĐƯỢC BIẾN ĐỔI NHỜ THẦN KHÍ
I.HỌC LỜI CHÚA
1.
TIN MỪNG: Mc 9,2-10
(2)
Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo
mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi,
tới một ngọn núi cao rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các
ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở
trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a
cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. (5) Bấy giờ, ông Phê-rô
thưa với Đức Giê-su rằng: “Thưa thầy, chúng con ở đây, thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều, Thầy một cái, ông Mô-sê một cái, và
ông Ê-li-a một cái”. (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các
ông kinh hoàng. (7) Và có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây,
có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”.
(8) Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giê-su
với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các
ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Người
đã từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, những vẫn bàn
hỏi nhau xem câu “Từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì?
2.
Ý CHÍNH:
Sau
khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu
chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin
của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là
Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước
mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có
Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua.
Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do
thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp
các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người
sau này.
3.
CHÚ THÍCH:
- C
2-4: + Các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an: Đây
là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang
Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi
bị vấp ngã khi chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn
Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong
hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức
Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa
trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc
trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các
Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trốn
lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã
được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về
Thiên tính của Người. +
Người biến đổi hình dạng: Đức
Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang
một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu
tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su,
Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ
đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi
để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của
thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm:
Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi Gio-su-ê lãnh đạo dân Ít-ra-en
tiến chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết mộ phần của Mô-sê ở đâu (x. Đnl
34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong
cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng
cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này
chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy
thời kỳ Cánh Chung và ban ơn Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức
Giê-su: Mác-cô không
nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca cho biết: “Và nói về
cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời
của Đức Giê-su) - mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc
9,29).
- C
5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ
Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong
các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu
Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng phải ở
trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng
3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông được chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ
các ông: Đám mây diễn
tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ Xuất Hành
của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) +
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su
là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép rửa tại sông Gio-đan
(x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi
người phải nghe theo lời Người dạy (x. Mt 16,14 ; Cv 3,22-23).
- C
9-10: + Đức Giê-su truyền
cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa
bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải
giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là chính
Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật
của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết
Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do
Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai của Người đúng theo Ý muốn của Thiên
Chúa. Nếu sớm nói ra sự thật này thì sẽ làm cho dân Do thái bị tinh thần
ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo
nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và
sẽ gây ra bạo loạn, làm cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do
Thái nhỏ bé, bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về thiêng liêng tinh thần của
Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được
các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của
Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người “từ cõi chết sống lại”. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su.
Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, cho đến sau khi Người
chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như
vậy. + Từ cõi chết
sống lại nghĩa là gì? Cũng
như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế mà
phải qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không
hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại”
hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc
biến hình (x Mc 8,31).
4.
CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba
môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Núi cao ở đây là núi gì? 3) Đức
Giê-su hiển dung nhằm mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với
Mô-sê và Ê-li-a ra sao và nhằm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin
Thầy Giê-su cho phép dựng 3 lều trại? 6) Đám mây muốn diễn tả gì? 7) Qua
lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải điều gì về Đức Giê-su
với 3 môn đệ thân tín của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là
gì? Tại sao Đức Giê-su lại cấm ba môn đệ không nói ra điều các ông vừa
được chứng kiến? 9) Tại sao sau cuộc biến hình các môn đệ lại thắc mắc
về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” của Đức Giê-su?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Đức
Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
2.
CÂU CHUYỆN:
1)
VÂNG LỜI QUÝ GIÁ HƠN BÁU VẬT:
Một
hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc
trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
-
Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
-
Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua
ra lệnh cho quan Tể tướng:
-
Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi !
Quan
Tể Tướng liền nói:
-
Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được
ạ !
Nhà
vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc quý.
Kế
đó vua lại đưa viên ngọc quý ấy cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi :
-
Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu ?
-
Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
-
Khanh hãy đập bể nó ra !
-
Đập vỡ viên ngọc này ư ? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công
việc đó.
Nhà
vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau
cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul :
-
Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không ?
-
Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
-
Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập
tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai
nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Ab-dul. Họ hỏi ông rằng:
-
Sao nhà ngươi lại dám làm như thế ?
Ab-dul
bình tĩnh đáp lại:
Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý
nào.
Trước
thái độ thần phục tuyệt đối của Ab-dul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng
nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan
kia.
Câu
chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Chúa Cha
khi luôn vâng nghe lời Cha, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán
rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).
2) GIÁ TRỊ BIẾN ĐỔI CỦA ĐAU KHỔ:
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên
là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt
: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành
đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm
thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi
treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho
rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì
cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ
uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc.
Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả
niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giê-su trên
thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng , xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm
nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu
hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.
3) THIÊN THẦN BIẾN THÀNH ÁC QUỈ:
Một
hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng
sáng tác. Khi đến một khúc cua đường, ông chợt thấy một bé trai có
khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên
thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân
dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng
vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy
khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh
này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi
khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức
lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng
dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.
Hai
mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi
tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo
quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên
quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian
ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để
so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” đang
treo trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”
Bấy
giờ gã ăn mày chìa tay ra xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người
mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá lớn. Gã ăn xin lập
tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng
khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng”
đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ
từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa
sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi
nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của
tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh
của gã như sau:
“Tôi
vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực
cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi
lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản cha mẹ để lại để lao mình
vào các đam mê trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung
phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn xấu đi trộm cướp.
Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã
trải qua rất nhiều gian nan tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc
lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng
chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại
và các bạn tù khác yếu đuối hơn tôi. Bây giờ sau khi mãn hạn tù, tôi
đang ở trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm
bệnh lao phổi thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là đi ăn xin
như ông thấy đó”.
Trước
tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình,
họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin
hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô
đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới
vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách. Ông cũng
thường giải thích cho bạn bè và những người thắc mắc về sự xuất hiện
của hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra
chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và
ác quỉ chỉ cách 20 năm sống phóng đãng mà thôi!”.
3. THẢO LUẬN: 1)
Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong
trắng như thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2)
Bạn sẽ thực tập nhân đức nào bằng những việc làm cụ thể để loại trừ một thói hư
quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
4.
SUY NIỆM:
1) BIẾN ĐỔI LÀ QUY LUẬT CỦA CUỘC
SỐNG:
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến
đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có
biết bao biến đổi : có những chiếc lá tháng trước đến nay không còn, nhưng
lại có nhiều chiếc lá mới mọc ra. Và nhiều chiếc lá hiện nay đến tháng sau sẽ
không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này
qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà chỉ là một cây giả.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi
ấy : bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc
dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Hê-ra-clite đã nói
"Không ai tắm hai lần trong một dòng sông". Tuy vẫn là con sông ấy
nhưng nước sông hôm nay không phải là nước sông của ngày hôm qua.
Và nhìn vào bản thân : các nhà khoa học nói rằng các
tế bào luôn có thay đổi, cái này chết nhường chỗ cho cái kia sinh ra. Sau 7 năm
thì không còn tế bào nào cũ của 7 năm trước nữa. Không biến đổi cũng đồng nghĩa
với chết. Đối với cuộc sống thân xác thế nào thì cuộc sống thiêng liêng
cũng giống như thế. Mùa Chay chính là thời gian giúp chúng ta biến đổi nên
người mới tốt hơn. Nhờ được ơn biến đổi trong Mùa Chay này, chúng ta hy vọng sẽ
được sống lại thật về phần linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
2) CUỘC
BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
- Đức Giê-su biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân
tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang Thiên Chúa của Người: Từ
khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giê-su đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ
khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây khi nhìn thấy. Bấy giờ đang là lễ
Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh thấy Thầy Giê-su trò
chuyện với hai nhân vật nổi tiếng là Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và Ê-li-a, đại
diện cho Ngôn Sứ, đã xin Thầy cho dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông
Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Bấy giờ có tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây
xác nhận Đức Giê-su là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời
Người” (x. Mc 9,7).
- Vâng lời Đức Giê-su chính là vâng lời Chúa Cha như Người
đã nói: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ
Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Ðấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Trong
tiệc cưới Ca-na, đức Ma-ri-a cũng dạy gia nhân: “Người bảo gì các anh cứ việc
làm theo” (Ga 2,5).
Cụ thể vâng lời Đức Giê-su nghĩa là
chấp nhận bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa, chấp nhận con
đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang” như Đức Giê-su đã tiên báo khi đi lên
Giê-ru-sa-lem mà tông đồ Phê-rô đã can trách, nên đã bị Người mắng như sau:
“Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,23).
Hiểu được giá trị biến đổi của đau khổ thập giá, thánh nữ Bec-na-dét
đã cầu nguyện với Chúa Giê-su như sau: ”Con không xin Chúa cất khỏi con sự đau
khổ, nhưng chỉ xin Chúa đừng bỏ con khi con chịu đau khổ”.
3) CẦN BIẾN HÌNH NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:
- Họa
lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta chấp nhận dìm
mình trong dòng nước và trồi lên mặt nước giống như Đức Giê-su đã qua cuộc tử
nạn, đến ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã
chấp nhận đi con đường chết và sống lại này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng
phải chấp nhận đi con đường của Đức Giê-su, nghĩa là sẵn sàng bị thua thiệt, bị
mất việc làm, mất địa vị xã hội vì lòng tin yêu Chúa...
- Thánh Phao-lô đã dạy
các tín hữu: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo
tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính
xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì
sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời.” (Gl 6,7-8). ”Vì thế anh em phải cởi bỏ con
người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa
dối. Anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người
mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống
công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
4) VÂNG NGHE LỜI CHÚA ĐỂ ĐƯỢC BIẾN
HÌNH NHỜ THẦN KHÍ:
- Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi người chúng ta hãy xét
mình mỗi buổi tối và quyết tâm loại trừ các thói hư như: lười tham dự lễ, bỏ đọc
kinh tối gia đình, loại trừ thói tham lam ích kỷ và vô trách nhiệm, tránh nói
hành những kẻ vắng mặt, biết nín nhịn kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các
buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa
hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái cụ thể kèm theo những
lời nguyện tắt… chúng ta hy vọng sẽ được Thần Khí Chúa biến đổi nên hiền lành
và khiêm nhường giống Chúa Giê-su như Người đã dạy: “Tất cả những ai đang vất
vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh
em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu
và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).
- Noi gương Đức Ma-ri-a sau khi đón nhận Thai Nhi Giê-su,
đã đem Người đi thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét, làm cho thai nhi Gio-an nhảy mừng
trong dạ mẹ. Noi gương An-rê sau khi gặp Đức Giê-su đã gặp Si-mon và dẫn em đến
giới thiệu với Đức Giê-su để trở thành tông đồ đi chài lưới các linh hồn. Người
tín hữu chúng ta sau khi được ơn biến đổi cũng phải chu toàn sứ mệnh làm chứng
cho Chúa, giới thiệu Chúa cho những người thân như cha mẹ, anh chị em, bạn bè chưa
biết Chúa để họ cũng tin yêu Chúa và được hưởng ơn cứu độ với chúng ta.
5.
LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Mỗi
khi con bị những tiếng ồn ào vây hãm, xin cho con biết tìm những phút giây
thinh lặng được gần bên Chúa.
Khi tâm trí con bị căng thẳng phải lo trăm công ngàn
việc, xin cho con biết quý chuộng những giờ phút được hiện diện trước nhan thánh
Chúa.
Khi lòng trí con bị giao động và không biết phải làm gì,
xin cho con biết tìm đến ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi thân xác con bị lôi cuốn bởi các đam mê dục vọng, xin
cho con biết vượt lên cao nhờ biết sử dụng đôi cánh thiên thần là cầu nguyện và
chay tịnh.
Lạy Chúa. Ước gì tinh thần ăn chay cầu nguyện thấm nhuần
vào cuộc đời con. Trong Mùa Chay này xin giúp con biến đổi nên hiền lành và
khiêm nhường giống như Chúa khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM