CN SAU GIÁNG
SINH
LỄ THÁNH GIA B
Hc 2,3-6,12-14;
Cl 3,12-21; Lc 2,22-40
XÂY DỰNG MÁI ẤM
GIA ĐÌNH HÔM NAY
I.HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Lc 2, 22-40:
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê,
bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, (23)
như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là
thánh, dành cho Chúa, (24) và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền, là một
đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con. (25) Và này đây tại Giê-ru-sa-lem, có một
người tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo. Ông những mong chờ
niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. (26) Ông đã được
Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy
Đấng Ki-tô của Đức Chúa. (27) Được Thần Khí dun dủi, ông lên Đền Thờ vào lúc
cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu tòan tập tục Luật đã truyền liên quan
đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
(29) Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này, được an
bình ra đi. (30) Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, (31) Chúa đã dành sẵn
cho muôn dân. (32) Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là vinh quang của Ít-ra-en
Dân Ngài”. (33) Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-on vừa nói
về Người. (34) Ông Si-mê-Hon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a,
mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en
phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
(35) Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý
nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra”. (36) Lại cũng có một ngôn sứ tên là
An-na, con ông Pơ-nu-en, thuộc chi tộc A-sê. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất
giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, (37) rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư
tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng
Thiên Chúa. (38) Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và
nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
(39) Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi
cư ngụ là thành Na-da-rét miền Ga-li-lê. (40) Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên,
thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
2.Ý CHÍNH:
Tin mừng ghi lại việc Đức
Ma-ri-a và Thánh Giu-se nêu gương sáng cho các bậc cha mẹ trong việc tuân giữ
Luật Thiên Chúa qua việc các ngài đã dâng Hài Nhi Giê-su cho Thiên Chúa trong
Đền thờ. Tại đây Hài Nhi Giê-su đã tỏ mình là Con Thiên Chúa cho ông gìa Si-mê-on
và bà ngôn sứ An-na, đồng thời tỏ mình là một phàm nhân khi mang thân
phận một trẻ thơ yếu đuối.
3.CHÚ THÍCH:
-C 22-24: +Khi
đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê: Luật Mô-sê dạy
rằng: đàn bà sinh nở bị nhơ uế nên cần được thanh tẩy trong Đền thờ. Vì Hài Nhi
Giê-su là con trai nên Đức Ma-ri-a phải lên Đền thờ làm lễ thanh tẩy vào ngày
thứ 40 sau khi sinh theo như Luật dạy. +bà Ma-ri-a và ông Giuse đem con
lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi
con trai đầu lòng phải được gọi là thánh, dành cho Chúa: Vì được Thiên
Chúa cứu khỏi bị chết ở nước Ai cập trước biến cố Xuất Hành, nên sau này Luật Mô-sê
qui định các con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa và phải được dâng cho Thiên
Chúa (x Xh 15, 2 và 12). +và cũng để dâng của lễ theo luật Chúa truyền,
là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu con: Theo luật Mô-sê (Lv 12,6-8) sản phụ phải dâng
lễ vật để làm của lễ toàn thiêu và đền tội thay cho mình. Ở đây Ma-ri-a dâng lễ
vật là một đôi chim câu, chứng tỏ ông bà thuộc thành phần nghèo. Việc dâng lễ
vật này cho thấy Đức Ma-ri-a có lòng khiêm tốn vâng phục Luật Chúa truyền dạy,
dù Mẹ đã được thụ thai và sinh con bởi quyền năng Thánh Thần, nên vẫn bảo tòan
được đức trinh khiết.
-C 25-28: +Và này đây tại Giê-ru-sa-lem, có một người
tên là Si-mê-on. Ông là người công chính và sùng đạo. Ông những mong chờ niềm
an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông: Si-mê-on là một người công chính và có lòng kính sợ Thiên
Chúa thể hiện qua việc luôn tuân giữ Luật Mô-sê. Ông đang chờ đợi niềm an ủi của
dân It-ra-en là sắp được đón nhận Đấng Thiên Sai. +Được Thần Khí dun dủi,
ông lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu tòan tập tục
Luật đã truyền liên quan đến Người: Si-mê-on được Thánh
Thần soi sáng cho biết: ông sẽ được nhìn thấy Đấng Cứu Thế trước khi nhắm mắt.
Quả thật, chính Thánh Thần đã thực hiện lời hứa khi thôi thúc ông đi lên Đền
thờ đúng vào lúc cha me Hài Nhi Giê-su đưa Người lên Đền thờ để dâng tiến cho
Thiên Chúa.
-C 29-32: +Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã
hứa, xin để tôi tớ này, được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu
độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngọai, là
vinh quang của Ít-ra-en dân Ngài”: Khi bồng ẵm Hài Nhi trên tay, Si-mê-on đã thốt
lên bài ca mà ngày nay vẫn được Hội Thánh đọc trong giờ kinh tối mỗi ngày. Bài
ca này gồm hai ý chính : Một là Si-mê-on đã được thỏa mãn khi bồng ẵm Đấng Cứu
Thế được hứa sẽ đến, nên ông sẵn sàng nhắm mắt trong bình an thư thái. Hai là
sứ mệnh của Đấng Cứu Thế dành cho mọi dân tộc chứ không chỉ dành riêng cho dân
Do thái. Người sẽ trở thành ánh sáng chiếu soi muôn dân, phá tan mọi tăm tối để
giúp mọi người nhận biết chân lý.
-C 33-35: +Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời
ông Si-mê-on vừa nói về Người: Hai
ông bà Giu-se và Ma-ri-a kinh ngạc khi nghe ông già Si-mê-on cho
biết sứ mệnh cao cả của Hài Nhi Giê-su là sẽ cứu độ muôn dân, là ánh sáng cho muôn
dân. Đây là điều Ma-ri-a chưa được sứ thần Gáp-ri-en cho biết khi truyền tin. +Thiên
Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en phải vấp ngã hay
được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng: Si-mê-on
tiết lộ cho Ma-ri-a về cách thế người đời đối xử với Chúa Ki-tô. Khi xuất hiện,
Đức Giê-su sẽ chia thế giới thành hai phe: một phe tin yêu Người, còn phe kia thù
ghét Người. Chính sự yêu hay ghét đó sẽ bộc lộ tâm tư của con người, cho thấy họ
đứng về phía sự sự công chính chân thật hay ngả theo sự bất lương dối trá. +Còn
chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người phải lộ ra: Riêng bà Ma-ri-a khi chứng kiến tất cả
những sự thù ghét chống đối đó, sẽ bị đau khổ trong tâm hồn giống như bị một
lưỡi gươm sắc bén đâm thâu vậy.
-C 36-40: +Lại cũng có một ngôn sứ tên là An-na…: Bà An-na được mệnh danh là ngôn sứ hay tiên tri, vì bà đã
làm công việc của một ngôn sứ là tuyên sấm lời Thiên Chúa để kêu gọi người ta ăn
năn sám hối và động viên họ phải làm việc thiện theo đường lối của Thiên Chúa. +Bà
không rời bỏ Đền thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa: Bà
An-na thực là một người đạo đức khi bà chuyên cần phục vụ Đền thờ
và năng ăn chay cầu nguyện. +Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ
Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa
cứu chuộc Giê-ru-sa-lem: Bà được Thánh Thần soi sáng nhận biết Đấng Cứu
Độ của dân Ít-ra-en. Bà cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa và đã đi loan báo tin
mừng về Hài Nhi Cứu Thế cho hết những ai đang trông chờ ơn cứu độ của dân Ít-ra-en
biết. +trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét miền Ga-li-lê: Từ đây
Na-da-rét trở thành quê hương của Đức Giê-su và luôn gắn liền với
tên gọi của Người. Sau này Phi-la-tô đã truyền gắn bản án ghi “Giê-su Na-da-rét
Vua dân Do thái” trên cây thập giá.
4.CÂU HỎI: 1) Bài Tin Mừng hôm nay nhằm dạy bài học gì về
bản tính của Chúa Giê-su? 2) Luật Mô-sê quy định thế nào về sự nhơ uế của người
phụ nữ sau khi sinh? 3) Luật Mô-sê dựa vào đâu để quy định khỏan luật về mọi con
trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa nên phải dâng cho Thiên Chúa trong Đền thờ? 4)
Qua lễ vật dâng cho Thiên Chúa để chuộc lại Hài Nhi Giê-su, chứng tỏ hai ông bà
Giuse Ma-ri-a thuộc hạng giàu có hay nghèo khó trong xã hội Do thái đương thời?
5) Ông già Si-mê-on nói tiên tri thế nào về sứ mệnh của Hài Nhi Giê-su và về
tương lai của Đức Ma-ri-a Mẹ Người? 6) Do đâu tác giả Tin mừng gán cho bà An-na
danh hiệu ngôn sứ hay tiên tri? 7) Tại sao Đức Giê-su được gọi là Giê-su Na-da-rét?
II.SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI
CHÚA: Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang
Ai-cập (Mt 2,14) :
2.CÂU
CHUYỆN:
1) ĐÂU LÀ BỨC
CHÂN DUNG HOÀN HẢO:
Một hôm hoàng đế của một vương quốc hùng mạnh có sở thích
sưu tầm các tác phẩm nghệ thuật của nhân loại đã truyền mở một cuộc thi nghệ
thuật kèm theo phần thưởng rất hậu hĩ. Nội dung của cuộc thi là khắc họa chân
dung của nhà vua bằng các chất liệu khác nhau. Nghệ nhân từ khắp các nước nghe
tin đã lũ lượt kéo đến tranh tài. Các nghệ nhân Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và
các loại đá hoa cương quí hiếm. Nghệ nhân người Ác-mê-ni thì mang theo một loại
đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập lại mang đủ loại đồ nghề và các khối đá cẩm
thạch. Sau cùng, người ta rất ngạc nhiên khi thấy đoàn nghệ nhân Hy Lạp đến với
một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn được bố trí làm việc trong một phòng riêng.
Khi thời gian thi kết thúc, hoàng đế cùng văn võ bá quan đã đi đến từng gian
phòng của nghệ nhân để chấm điểm. Hoàng đế đã hết lời khen ngợi bức họa chân
dung của ông được các nghệ nhân Ấn độ vẽ rất giống. Ông càng thán phục hơn khi
nhìn thấy các pho tượng của mình được nghệ nhân Ai Cập và Ac-mê-ni điêu khắc.
Sau cùng, nhà vua đến phòng trưng bày của người Hy Lạp đã
rất ngạc nhiên khi thấy chỉ có một bức tường bằng đá của căn phòng được đánh
bóng đến độ khi nhìn vào bức tường, nhà vua đã nhìn thấy hình ảnh của mình được
hiện lên rõ nét. Dĩ nhiên, giải nhất được trao cho đoàn nghệ nhân Hy Lạp, vì
theo họ chỉ có nhà vua mới có thể họa được chân dung của chính mình.
Muốn họa lại chân dung của Chúa Ki-tô, mỗi người chúng ta
cần phải mài giũa đánh bóng tâm hồn của mình sạch mọi tội lỗi và các thói hư.
Một khi tâm hồn chúng ta đã nên trong sáng như gương, chúng ta sẽ có thể phản
chiếu hình ảnh của Chúa khi nghe Lời Chúa và đón nhận Thánh Thể Chúa và giới
thiệu Chúa cho tha nhân.
2) GIA ĐÌNH
HẠNH PHÚC CHÍNH LÀ MỘT THIÊN ĐÀNG TRẦN GIAN:
Cả thiên đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn
y như nhau, trong khung cảnh giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng
một đôi đũa dài cả thước để ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này:
trên thiên đàng, mọi người không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người
khác ăn, vì thế, ai cũng được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết
nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai
gắp cho mình được gì cả, thế rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn
đói, từ đó họ trở nên căm thù nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự tạo hạnh phúc cho
mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ biết lo cho hạnh
phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh đủ thứ đau khổ.
Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác, vì thế,
nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc cho nhau, thì ai
nấy đều hạnh phúc.
3)
PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC CON CÁI HỮU HIỆU: LÀM TRƯỚC DẠY SAU:
Một hôm có một phụ nữ dắt theo một bé gái đến gặp
MA-HÁT-MA GĂNG-ĐI (Mahatma Gandi) để xin ông một lời khuyên, để con bà bỏ thói
hay ăn quà vặt. Găng-đi liền nói : Bà hãy đem nó về nhà và ba tuần sau hãy mang
nó trở lại đây cho tôi”. Sau đúng ba tuần, bà ta lại dắt con đến như đã hẹn.
Bấy giờ Găng-đi đã khuyên bảo đứa bé đúng như bà mẹ đã yêu cầu, rồi cho hai mẹ
con về. Nhưng trước khi ra về, bà mẹ nêu thắc mắc: “Thưa ngài, tôi tưởng là
ngài phải làm gì nhiều hơn chứ. Nếu chỉ là việc cho con gái tôi một lời khuyên
thì sao ngài lại bắt tôi phải chờ đến ba tuần làm chi?” Bấy giờ Găng-đi mới ôn
tồn trả lời: “Thưa bà, lần trước nghe lời bà yêu cầu, tự nhiên tôi cảm thấy xấu
hổ, vì chính tôi cũng đang mắc tật xấu hay ăn quà vặt như con gái bà. Vì thế
tôi không thể khuyên cháu đừng làm điều mà chính tôi đang mắc phải. Do đó, tôi
đã phải hẹn với bà ba tuần sau trở lại, để trong ba tuần lễ đó, tôi cố bỏ tật
xấu ấy, rồi mới dám cho cháu bé một lời khuyên như bà đã thấy”.
3.SUY NIỆM:
1) THÁNH GIA- GƯƠNG MẪU CỦA CÁC GIA ĐÌNH TÍN HỮU:
a) Tinh thần
trách nhiệm lo cho gia đình và luôn cậy trông Thiên Chúa: Bấy giờ khi Hài Nhi Giê-su bị vua Hê-rô-đê tìm kiếm giết
hại, Giu-se được sứ thần mộng báo đã lập tức trỗi dậy ngay lúc đêm tối, đem vợ
con chạy trốn sang bên Ai-cập. Sau khi Hê-rô-đê băng hà, Giu-se lại vâng lệnh
sứ thần đem Con Trẻ và Mẹ Người về làng Na-da-rét, để tránh vua mới là
Ác-khê-lao tiếp tục tìm kiếm giết hại. Qua sự kiện này, ta thấy gia đình chúng
ta cũng không tránh khỏi những cơn phong ba bão tố vùi dập. Các bậc gia trưởng
hãy noi gương thánh Giu-se để luôn tin cậy và tuân phục thánh ý Thiên Chúa.
b) Vợ chồng
cùng nhau cộng tác vượt qua nghịch cảnh: Trong cuộc sống, thánh gia cũng không tránh khỏi có những lúc gặp
sóng gió, tưởng như con thuyền gia đình sắp tan vỡ. Chẳng hạn : Giu-se đã từng có
lúc suy nghĩ và quyết định rời bỏ Ma-ri-a; Cũng có lúc khốn cùng, khi giu-se
đưa Ma-ri-a về quê Be-lem khai sổ nhân danh, Ma-ri-a đã tới lúc sinh con, nhưng
hai ông bà không tìm được chỗ nghỉ trong quán trọ, Giu-se phải đưa Ma-ri-a nghỉ
tạm trong hang chiên cừu ngoài đồng vắng, và Hài Nhi Giê-su đã được sinh ra
trong cảnh bần cùng. Có những lúc hai ông bà Giu-se Ma-ri-a phải chạy đôn chạy
đáo lo lắng tìm Hài nhi bị lạc mà mãi ba ngày sau mới tìm thấy trong Đền Thờ.
Nhất là có lúc Đức Ma-ri-a như bị dao sắc thâu qua trái tim, khi đứng dưới chân
thập giá, chứng kiến người con yêu hấp hối và khi chết rồi còn bị tên lính cầm lưỡi
đòng đâm thâu cạnh sườn… Như vậy, Thánh Gia cũng chẳng được ưu đãi hơn so với
các gia đình khác, cũng phải trải qua nhiều nghịch cảnh… để nêu gương phấn đấu cho
các gia đình tín hữu hôm nay.
2) NHỮNG
NGUYÊN NHÂN THƯỜNG GÂY ĐỔ VỠ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNH:
Các gia đình hôm nay cũng có có thể gặp nguy cơ bị đổ vỡ
hạnh phúc:
a) Do thái độ
ích kỷ, lười biếng và vô trách nhiệm: khi
vợ chồng không biết lo cái ăn cái mặc
hay chỗ ở cho gia đình, dẫn đến thái độ vợ chồng khinh thường tranh cãi và giận
hờn nhau.
b) Do các thói
hư như rượu chè, cờ bạc, trai gái hút chích… Khi hai người ứng xử thiếu lịch sự tế nhị với nhau và với người
thân, không thống nhất về cách nuôi dạy con cái, không tôn trọng nhau thể hiện
qua việc một mình quyết định những việc quan trọng trong gia đình.
c) Do thiếu
tình thương yêu giữa hai vợ chồng: Do không hâm nóng khiến tình yêu lâu ngày bị phai lạt, thể hiện
qua việc không nói chuyện với nhau, mỗi
người đi tìm thú vui với bạn bè ngoài
gia đình hoặc chia sẻ tình cảm với người thứ ba… Nữ tu Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã
nói về vấn đề này như sau: “Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan
trọng của gia đình. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì chắc chắn thế giới này sẽ
khác”.
Thậy vậy, thế giới băng hoại vì có nhiều gia đình thiếu
tình thương. Giới trẻ sở dĩ rơi vào thói xấu nghiện hút ma túy, phần lớn là do cha
mẹ đã thiếu quan tâm dạy dỗ. Ước gì các gia đình chúng ta trở thành những mái
ấm đầy tình yêu của Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
3) LÀM THẾ
NÀO ĐỂ GIA ĐÌNH LUÔN SỐNG HÒA HỢP HẠNH PHÚC?
a) Mỗi người cần chu toàn trách nhiệm đối với gia đình: Một tờ báo ở Luân-đôn nước Anh đã mở một cuộc
điều tra các ông chồng, yêu cầu các ông thành thật trả lời câu hỏi: “Trong gia
đình bạn, ai là người thực sự có quyền làm chủ gia đình ?” Kết quả cho thấy có
80% câu trả lời: “Vợ tôi làm chủ”, 19% trả lời “Mẹ vợ tôi làm chủ”. Chỉ có 1%
trả lời: “Chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã qua đời !” Như vậy, không lạ gì khi
thấy sau Hoa Kỳ, Anh quốc có số gia đình ly hôn tỷ lệ cao nhất: Mỗi năm cứ hai
đám cưới thì có một đám ly hôn.
b) Hãy chịu đựng nhau và tha thứ cho nhau : Trong một buổi tĩnh tâm dành cho gia trưởng, nhưng cũng
có nhiều bà vợ tham dự. Tới phần làm phép thánh giá, cha giảng phòng nói: “Ai
có cây thánh giá cần làm phép yêu cầu mang lên gần gian cung thánh để được làm
phép”. Bấy giờ một ông lão thay vì mang cây thánh giá thì lại cõng bà vợ bị tê
liệt lên. Khi tới phiên, thay vì giơ cây thánh giá lên cho cha rẩy nước thánh
thì ông lão lại bồng bà cụ lên trước sự ngạc nhiên của mọi người. Ông nói:
“Thưa cha, đây là thánh giá của con. Xin cha làm phép để con được vác thánh giá
này đến trọn đời !”.
c) Hãy biết tôn trọng nhau, năng trao đổi bàn bạc để thống nhất trong
mọi việc như: Về cách giao
tiếp với tha nhân, cách nuôi dạy con cái, sự mua sắm các vật dụng, công việc làm
ăn sinh sống… Vì “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” và “Phu phụ hòa,
gia đạo thịnh”.
d) Gia đình phải có bàn thờ Chúa: Cần lập một bàn thờ Chúa ở nơi trang trọng như tại phòng khách và
duy trì giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Trong giờ kinh tối tuy ngắn gọn, nhưng
luôn có phần lắng nghe Lời Chúa và lần hạt chung cầu cho gia đình.
Tóm lại: Nếu gia đình có “Thiên Chúa là Tình Yêu” ngự trị,
chồng yêu vợ, vợ yêu chồng, con cái thảo kính cha mẹ, anh chị em trong nhà biết
nghĩ đến nhau và quan tâm đến nhau… thì chắc gia đình sẽ vượt qua được mọi thử
thách, sẽ vui sống thuận hòa với nhau và gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh làm
chứng cho Chúa trước mặt người đời.
4.THẢO LUẬN: 1) Nguyên nhân thường gây đổ vỡ hạnh phúc
gia đình là gì và phải làm gì để phòng tránh? 2) Bạn có đồng ý với câu người ta
thường nói: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà” hay không? Tại sao?
LẠY CHÚA GIÊ-SU, mỗi lần tham dự thánh lễ hôn
phối, con thấy đôi tân hôn thật hạnh phúc. Với nét mặt rạng rỡ trong bộ y phục
trắng tinh khôi, con thấy cô dâu sánh bước bên chú rể tiến đến trước bàn thờ cử
hành hôn lễ như đang bước vào thiên đàng hạnh phúc. Nhưng rồi với năm tháng qua
đi, con lại thấy gia đình họ trở thành hỏa ngục trần gian, khi “kẻ thì khóc
lóc, người lại nghiến răng”. Xin giúp các đôi vợ chồng trẻ biết cách duy trì
được tình yêu thuở ban đầu. Xin cho họ biết “cho đi hơn là nhận lãnh”, biết ân
cần phục vụ lẫn nhau, quảng đại tha thứ và chịu đựng nhau… Nhờ đó gia đình tín
hữu chúng con sẽ trở thành một thiên đàng tình yêu, là dấu chỉ sau này chúng
con sẽ cùng được hưởng hạnh phúc trên Thiên đàng.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM