CHÚA NHẬT 2
PHỤC SINH A.B.C
Cv 4.32-35 ; 1
Ga 5,1-6 ; Ga 20,19-31
TỪ KHÔNG TIN ĐẾN VỮNG TIN VÀ HĂNG HÁI LOAN TRUYỀN
ĐỨC TIN CỦA ÔNG TÔ-MA
I.HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 20,19-31:
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần,
nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do
Thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”.
(20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui
mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho
anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói
xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Chúa
Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; Anh em
cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”.(24) Một người trong Nhóm Mười
Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức
Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy
Chúa! Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi
không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin”.(26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có
mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng
kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”.
(27) Rồi người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem
tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy tin”.(28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên
Chúa của con! “ (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc cho những người không thấy mà tin!”.(30) Đức Giê-su đã làm nhiều
dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; Nhưng những dấu lạ đó không
được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây
là để anh em tin rằng Đức Giê-su là
Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh
Người.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức
Giê-su hiện ra với các tông đồ. Cả hai lần đều vào buổi chiều ngày
thứ nhất trong tuần và cách nhau một tuần lễ. Lần đầu Tô-ma vắng
mặt, và lần sau có ông hiện diện. Khi hiện ra lần thứ hai, Đức Giê-su
đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma đòi được “mắt thấy tai sờ”. Khi được
Chúa Phục Sinh hiện ra, lập tức Tô-ma đã có đức tin và đã tuyên xưng
đức tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Sau đó,
Đức Giê-su đã động viên các tín hữu về sau là những người chỉ có
đức tin bởi nghe: “Phúc thay những người không thấy mà Tin!”.
3. CHÚ THÍCH:
- C 19-20: + Ngày thứ nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong
tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày
Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do
Thái Giáo. + Đức Giê-su đến: Đức Giê-su Phục Sinh hiện đến
trong lúc phòng đóng kín. Điều này cho thấy thân xác phục sinh của
Người có đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện khắp
nơi. + Bình an cho anh em! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa:
Đức Giê-su Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm
vui (x Ga 20,20) cho các môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem
tay và cạnh sườn: Đức Giê-su Phục Sinh cũng là Đấng đã bị
đóng đinh chân tay vào thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu
cạnh sườn (x. Ga 19,34). Điều này cho thấy có một dây liên kết giữa
mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
- C 21-23 + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em: Tông đồ
nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này xuất phát từ Chúa Cha truyền cho
Đức Giê-su, và giờ đây đến lượt Đức Giê-su Phục Sinh lại truyền cho
các môn đệ và tất cả mọi tín hữu. + Người thổi hơi vào các
ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa,
Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào con người A-đam và ban sự sống cho ông
(x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các
môn đệ. Rồi đến lượt các môn đệ lại sẽ ban sự sống thiêng liêng ấy
cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha.
Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được
Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ
tội trần gian (Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại
liệt, Đức Giê-su đã cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích giải tội, ban
quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các
ông. Từ đây các giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông ban
quyền tha tội cho các linh mục là những cộng sự viên của các ngài.
- C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên
là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô:
Tô-ma là một trong Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh
Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông ưa nêu ra thắc
mắc khi Đức Giê-su đang giảng để được Người dạy rõ hơn (x.Ga 14,5). +
Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người...: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một
đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25).
+ “... thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng
tin như thế. Tin Mừng nhất lãm đã nói tới sự cứng tin của các ông
như sau: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17) ; “Người khiển
trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin
những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14) ; Chúa
phán: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng?” (Lc
24,38).
- C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy
nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những
đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy khiển trách tội
cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông từ
bỏ cứng lòng để tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
- C 28-29: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con!”: Tô-ma là môn đệ
cuối cùng tin Đức Giê-su sống lại, nhưng lại là người đầu tiên tuyên
xưng nội dung đức tin đầy đủ nhất về Đức Giê-su: Người vừa là Chúa
(Cứu Chúa), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những
người không thấy mà tin”: Từ nay trở đi, đức tin và mầu nhiệm
Phục Sinh không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần hiện ra nữa,
nhưng dựa trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Sau này các
Tông đồ còn làm chứng về Đức Giê-su Phục Sinh bằng việc sẵn sàng
chịu chết vì đức tin vào mầu nhiệm ấy.
4. CÂU HỎI: 1) Tại sao ngày nay Hội Thánh chọn
Ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì ngày Thứ Bảy
(Sabát) như đạo Do thái? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn
đệ tại nhà Tiệc ly đang khi cửa đóng kín cho thấy thân xác của Người
sau khi sống lại có phẩm chất gì? 3) Qua lời chào chúc, Chúa Phục
Sinh đến đã đem lại điều gì cho các môn đệ?4) Qua việc cho môn đệ xem
tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông? 5) Sứ
mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc
nào? 6) Tại sao Đức Giê-su lại thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ?
7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người
thiết lập bí tích Giải tội ban quyền tha tội cho Hội Thánh khi nào?
8) Tin Mừng cho biết gì về tông đồ Tô-ma? 9) Tô-ma và các tông đồ có
dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su hay không? 10) Khi hiện
ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi mắt thấy
tay sờ của Tô-ma? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua
lời tuyên xưng nào? 12) Ngày nay các tín hữu dựa vào đâu để tin vào
mầu nhiện Phục Sinh của Chúa Giê-su? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và
của các tông đồ có giá trị thế nào đối với đức tin của các tín
hữu hôm nay?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC KI-TÔ CHỈ
ĐƯỢC TÔN VINH SAU KHI TRẢI QUA TỬ NẠN THẬP GIÁ:
Một
hôm do muốn cám dỗ thánh Mác-ti-nô phạm tội, nên quỷ đã hiện hình thành một ông
vua oai phong và phán rằng “Hỡi Mác-ti-nô, Ta cám ơn con đã tin vào Ta, và Ta
mong rằng từ nay con sẽ luôn ở bên Ta và vâng nghe lời Ta truyền dạy”.
Mác-ti-nô
chăm chú nhìn ông vua giàu sang kia và hỏi: “Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?”.
Vua liền trà
lời: “Ta là Vua Ki-tô đây !”
Mác-ti-nô lại hỏi: “Vậy những vết thương ở tay chân
của Đức Ki-tô đã biến đi đâu cả rồi?” Vua liền đáp “Ta từ trời xuống, nên không
cần đến các vết thương đó nữa !”
Bấy giờ Mác-ti-nô nói: “Tôi sẽ không bao giờ tin vào một
Đức Ki-tô không chịu khổ nạn và tay chân không mang thương tích!” Tên vua quỷ
nghe vậy liền biến mất.
Đức Ki-tô sau khi Phục sinh vẫn giữ
những vết thương của cuộc khổ nạn. Khi hiện ra với Tô-ma, Chúa Phục Sinh đã cho
ông xem những vết thương trên tay chân và cạnh sườn Người để chứng minh Người
là Đấng đã trải qua cuộc khổ nạn thập giá và đã từ cõi chết trỗi dậy.
2) GIÁ TRỊ CỦA CÁC VẾT SẸO TRÊN THÂN MÌNH ĐỨC GIÊ-SU:
Một võ sĩ đã trở lại đạo Công giáo,
ngày nọ gặp một người bạn thân. Anh bạn kia hỏi: “Tôi nghe nói anh mới theo đạo
công giáo phải không? Thật là tức cười !”
Võ sĩ tân tòng liền đápi: “Sao lại tức cười? Đó là điều
tốt mà anh”. Người bạn kia lại hỏi: “Nếu vậy, liệu anh có xoá nổi chân tướng con
người du côn của anh trước đây không? Những vết sẹo còn lại trên khuôn mặt anh
sẽ tố cáo con người thật của anh”.
Võ sĩ tân tòng trả lời: “Tôi không ngại chi về điều đó.
Những vết sẹo là dấu vết của hành động bạo lực tội lỗi trước kia, thì nay lại trở
thành cửa sổ giúp tôi đón nhận ơn Chúa. Thực vậy, những tội của tôi đã được Chúa
thứ tha, nay tuy vẫn còn dấu vết, nhưng là dấu vết tình thương của Chúa. Người
đã thương tôi và đã ban ơn cứu độ cho tôi”.
Khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Phục Sinh đã giữ nguyên
những vết sẹo để các ông có thể nhìn xem, sờ chạm và nhận ra Người. Khi hiện ra
với Tô-ma, Chúa đã thỏa mãn đòi hỏi của ông khi phán: "Đặt ngón tay vào
đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng
lòng nữa, nhưng hãy tin." (Ga 20,27). Chúa Ki-tô Phục Sinh sẽ khó thuyết
phục Tô-ma tin rằng Người đã từ cói chết sống lại nếu không cho ông xem các vết
sẹo trên hai bàn tay, hai bàn chân và nơi cạnh sườn của Người.
3) “LẠY CHÚA LÀ
THIÊN CHÚA CỦA CON”:
Trong tạp chí Guidepots, đã bài viết về bác sĩ SCOTT
HARRISON, một chuyên viên phẫu thuật bàn tay. Trong một bài tác giả đã viết về
bác sĩ này như sau: “Lần nào khi đang giải phẫu tay cho một người nào đó, ông
cũng đều kêu lên vào một lúc nào đó: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con!”. Ông có
thói quen nầy ngay từ hồi còn ở Việt Nam. Một đêm nọ, vừa rời trường Y, ông
được kêu đi gắp một viên đạn bị kẹt trong tay một người lính dưới ánh sáng của
ngọn đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã để lại cho ông một cảm xúc sâu xa, đến nỗi
sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, ông đã quyết định học chuyên ngành giải phẫu
bàn tay. Nhờ đi sâu vào lãnh vực chuyên môn nầy, ông đã thẩm định được cách sâu
sắc cơn đau khủng khiếp do một vật lạ gây ra, chẳng hạn như một viên đạn. Khi
vật ấy xuyên thủng lớp da, lớp gân và những sợi dây thần kinh nơi bàn tay một
ngườim nhà phẫu thuật ấy thường giật thót người mỗi lần nghĩ đến cơn đau kinh
khiếp mà Chúa Giê-su đã phải chịu khi đôi tay Người bị đóng đinh vào cây thập
giá.
Khi chia sẻ bài Tin Mừng hôm nay, nhà phẫu thuật đã phát
biểu như sau: “Tiếng kêu ‘Lạy Chúa là Thiên Chúa của con’ của tông đồ Tô-ma
không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà còn là tiếng kêu đầy cảm thông của vị
tông đồ này ông nhìn thấy dấu vết của đôi bàn tay bị xé toạc của Chúa Giê-su.
Chỉ đến lúc đó, Tô-ma mới nhận thức được cơn đau đớn mà Người đã phải chịu đựng
trên cây thập giá. Ông đã kết thúc bài nói chuyện như sau: “Mỗi lần thực hiện giải
phẫu cho một ai đó, tôi luôn nhớ tới Chúa Giê-su đã từng chịu đóng đinh hai tay
vào thập giá vì tôi. Khi ấy, cũng như Tô-ma, tôi đều phải thốt lên rằng : “Lạy
Chúa là Thiên Chúa của con”.
4) CÓ
THIÊN CHÚA KHÔNG?
Một bác học người Pháp muốn làm một cuộc nghiên cứu trong
sa mạc. Ông chọn mấy người Ả rập làm hướng dẫn viên. Một buổi chiều, khi mặt
trời sắp lặn, một người trong nhóm dẫn đường trải tấm thảm xuống cát và ngồi
lên đó trong dáng điệu trầm tư. Thấy thế nhà bác học buộc miệng hỏi:
- “Ngươi làm gì thế?”
- “Dạ, tôi cầu nguyện,” người kia trả lời.
- “Cầu nguyện à, thời buổi này mà còn cầu nguyện sao? Vậy
ra anh vẫn còn tin có Thiên Chúa? … Mà anh đã nhìn thấy Chúa chưa?” Nhà bác học
như muốn bắt bẻ.
- “Dạ chưa.”
- “Vậy anh đã nghe Chúa nói chưa?”
- “Dạ chưa.”
- “Vậy anh đã sờ chạm vào Chúa chưa?”
- “Dạ chưa,” người hướng dẫn kiên nhẫn trả lời.
- “Nếu thế thì anh thật là một gã điên khi tin vào một
Thiên Chúa mà chưa bao giờ thấy, không bao giờ nghe, và cũng chẳng bao giờ đụng
chạm được.”
Sau đó mọi người vào lều nghỉ đêm. Sáng hôm sau, trước khi
hừng đông, nhà thông thái vừa bước ra khỏi lều đã vội kêu lên:
- “Ồ, này mọi người ơi: Tối hôm qua đã có một con lạc đà
đi ngang qua nơi này!”
Người hướng dẫn trợn mắt kinh ngạc:
- “Vậy chứ ngài đã nhìn thấy con lạc đà đó đi ngang qua
đây sao ?”
- “Không,” nhà thông thái tự đắc trả lời.
- “Vậy chứ ngài đã đụng chạm vào nó à?”
- “Không.”
- “Vậy chứ ngài nghe thấy tiếng kêu của nó à?”
- “Không.”
Người hướng dẫn reo lên:
- “Thế thì ngài thực là một kẻ điên khi tin rằng có một
con lạc đà đã đi ngang qua khu vực chúng ta ở, khi mắt ngài không thấy, tai
ngài không nghe, và tay ngài không đụng chạm đến.”
Nhà thông thái đáp lại:
- “Nhưng ta biết được có con lạc đã ấy là nhờ những dấu
chân của nó còn để lại trên mặt cát kìa.”
Ngay lúc đó mặt trời hừng đông bắt đầu mọc lên, toả muôn
tia sáng rực rỡ lung linh. Người hướng dẫn liền chỉ tay về phía mặt trời và nói:
“Thế thì tôi cũng nhìn vào dấu vết là mặt trời kia để quả quyết có một Thiên
Chúa đang đi qua cuộc đời tôi.”
Ngày nay không ít người đã dựa vào những khám phá của
khoa học để tuyên bố không có Thiên Chúa, mà chỉ con người mới là chúa của vũ
trụ. Và niềm tin vào Thiên Chúa đang bị khoa học bóp chết. Thế nhưng, cùng lúc
đó lại có rất nhiều người khác, nhờ những khám phá của khoa học, đã nhìn thấy
nhiều điều bí ẩn, siêu việt trong thế giới này, mà trí khôn con người chỉ mới
vén mở được một phần sự thật it ỏi. Từ đó họ đã nhận biết sự hiện hữu của một
Đấng siêu việt trên tất cả, Đấng mà các tín hữu gọi là Thiên Chúa.
3.
SUY NIỆM:
1) Từ
không tin đến tuyên xưng đức tin của ông Tô-ma:
Tin Mừng Gio-an hôm nay tường thuật hai lần Đức
Giê-su hiện ra với các tông đồ sau khi sống lại. Cả hai lần Chúa đều hiện
ra vào buổi chiều Ngày Thứ Nhất trong tuần và cách nhau đúng một tuần
lễ. Lần thứ nhất vắng mặt Tô-ma, và lần thứ hai có ông hiện diện với các
anh em. Trước đó, Tô-ma đã tuyên bố sự cứng tin của mình khi đòi phải được
“mắt thấy tay sờ” mới tin Thầy sống lại từ cõi chết. Do đó, trong lần hiện
ra thứ hai, Chúa Giê-su đã thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma khi cho ông xem các vết
đinh ở hai bàn tay bàn chân và vết thương do lưỡi đòng đâm thâu ở cạnh sườn
Người. Bấy giờ Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng đức
tin : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga
20,28). Sau đó Đức Giê-su đã nhắn nhủ Tô-ma và qua ông, Người chúc phúc cho các
tín hữu sau này: “Vì đã thấy Thầy
nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà Tin!” (Ga
20,29).
2) Các môn đệ khác đạt được đức tin như thế nào ? :
Các môn đệ của Đức Giê-su không phải là những người dễ
tin. Các Tin Mừng thuật lại diễn tiến đức tin của các ông như sau:
- Vào sáng ngày Thứ Nhất trong tuần, khi nghe bà Ma-ri-a
bao tin xác Thầy biến mất, hai môn đệ Phêrô và Gioan đã chạy đến mồ quan sát
thực hư. Gioan đã đạt tới đức tin trước các anh em nhờ nhìn thấy những tấm khăn
liệm xác và các dây băng được xếp gọn để lại trong mồ. “Ông đã thấy và đã tin”.
Đức tin đến với ông nhờ sự tư duy và trực giác (x Ga 20,1-8).
- Bà Ma-ri-a Mácđala ban đầu đã gặp được Chúa Phục Sinh,
nhưng bà không nhận ra Người mà tưởng là người giữ vườn. Bà chỉ nhận biết Ngừơi
khi Người gọi tên “Ma-ri-a” (Ga 20,16).
- Hai môn đệ làng Em-mau cũng chỉ nhận ra Chúa Phục Sinh
sau khi đã được nghe Người giải thích Kinh thánh và chứng kiến việc Người bẻ
bánh là điểm (x Lc 24,13-31).
-Bảy môn đệ rủ nhau đi đánh cá tại biển hồ Ga-li-lê đã
nhận ra Chúa Phục Sinh do vâng lời Người nên đã bắt được mẻ cá lạ lùng
(x Ga 21,1-14).
- Riêng ông Tô-ma trong Tin mừng hôm nay đã tin khi được
Đức Giê-su thỏa mãn đòi hỏi “mắt thấy tay sờ” (x Ga 20,19-29).
- Tuy nhiên các môn đệ chỉ đạt tới đức tin trọn vẹn vào
lễ Ngũ Tuần, sau khi các ông đã được gặp Chúa hiện ra nhiều lần. Nhất là sau
khi các ông đã vâng lời Chúa cầu nguyện kết hiệp với Đức Ma-ri-a và các anh
em Chúa trong Nhà Tiệc Ly và nhận được đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần (x Cv
2,1-12); Chính nhờ đón nhận được sức mạnh Thánh Thần từ trên cao,
các ngài đã đạt được đức tin trọn vẹn và hăng say chu tòan sứ mệnh “loan báo
Tin mừng » được ủy thác
đến tận cùng thế giới”.(x Cv 1,8).
3) Làm thế nào để thuyết phục được nhiều người trong thế
giới hôm nay tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giê-su?
Như
Tô-ma xưa, con người ngày nay cũng không dễ tin: họ luôn đòi phải được “mắt
thấy tay sờ”, phải thấy được bằng chứng đáng tin. Do đó, các tín hữu chúng
ta cần trình bày mầu nhiệm Chúa Phục Sinh bằng chứng tích đời sống của mình.
Thực
vậy:
- Làm
sao anh em lương dân có thể tin vào Chúa Phục Sinh, nếu không được xem những
vết chai cứng nơi bàn tay lao động, những khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi vì phục vụ
những người nghèo khổ của các tín hữu chúng ta?
- Làm
sao họ tin Chúa đã yêu thương chịu chết đền tội và sống lại để ban cho họ sự
sống đời đời, nếu họ không nhìn thấy những dấu chỉ yêu thương quên mình phục vụ
trong cộng đoàn Hội Thánh … như sách Công vụ đã thuật lại sinh họat của Hội Thánh
Sơ Khai tại Giê-ru-sa-lem: “Các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì
các Tông đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau,
và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải , lấy tiền chia cho mỗi
người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ.
Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ,. Họ ca tụng
Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm
những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
- Yêu
thương nhau là dấu hiệu môn đệ đích thực của Đức Giê-su: “Ở điểm này , mọi người sẽ nhận biết anh em
là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Con
người ngày nay luôn đòi phải được xem thấy những dấu chứng tình thương nơi các
tín hữu như Đức Phaolô VI đã khẳng định: "Con người thời đại ngày nay
thích nghe các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy
dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
4) Thể hiện
Lòng Chúa Thương Xót cụ thể là cách loan báo Tin Mừng hữu hiệu cho con người
hôm nay:
Hội Thánh đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm để kính
Lòng Chúa Thương Xót, qua đó mời gọi các tín hữu chúng ta hãy noi gương Chúa thực
hiện lòng thương xót đối với tha nhân nhất là những người nghèo khổ bất hạnh
đang sống gần bên chúng ta.
- Mỗi người chúng ta cần tránh những lời nói, thái độ vụ
luật và bất nhân của bọn Biệt Phái và Kinh Sư Do thái xưa đã bị Chúa nặng lời
quở trách, nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng đón nhận đức tin vào Chúa hơn.
- Mỗi tín hữu chúng ta cũng cần thực hiện các việc bác ái
cụ thể như kinh thương người, trong đó có 7 việc thương người về thể xác cần
thực hiện như: Cho kẻ đói ăn; Cho kẻ khát uống; Cho kẻ rách rưới ăn mặc; Viếng
kẻ liệt cùng kẻ tù rạc; Cho khách đỗ nhà: Chuộc kẻ làm tôi; Chôn xác kẻ chết.
- Cũng cần thực hiện lòng bác ái thương người cả về phạm
vi linh hồn như: Lấy lời lành mà khuyên người; Mở dạy kẻ mê muội; An ủi kẻ âu
lo: Răn bảo kẻ có tội; Tha kẻ dể ta; Nhịn kẻ mất lòng ta; Cầu cho kẻ sống và kẻ
chết.
- Để có thể thực hành lòng thương người nói trên, mỗi người
chúng ta nên quyết tâm làm một việc bác ái cụ thể như: chia sẻ cơm bánh và khiêm
tốn phục vụ tha nhân, kèm theo một lời nguyện tắt như sau: “Lạy Chúa. Con xin làm
việc này để cầu cho một người lương tin yêu Chúa, để họ cũng được chia sẻ niềm vui
ơn cứu độ với con”. Làm như vậy là chúng ta tôn vinh Thiên Chúa như lời Chúa
Giê-su: ”Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh
Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
4. THẢO LUẬN: 1) Trước đây bạn
có bị ai thù ghét làm hại hay không? Nếu có, bạn sẽ làm gì để
thực hành Lời Chúa dạy tha thứ cho những kẻ thù ghét bách hại mình? 2)
Bạn hãy đọc thuộc kinh Thương Người và xin Chúa ban ơn giúp chúng ta thực
hiện tình thương tha nhân hằng ngày.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH.
Khi chúng con đi tìm kiếm Chúa trong nước mắt đau
thương, xin hãy âu yếm gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên bà Ma-ri-a
đang khóc bên mộ Chúa khi xưa.
Khi chúng con chán nản muốn bỏ Chúa, xin hãy
đi với chúng con trên những đọan đường dài, như Chúa đã đồng hành với hai môn
đệ trên đường về làng Em-mau.
Khi chúng con đóng cửa lòng vì sợ hãi, xin hãy đến
ban sự bình an cho chúng con, như Chúa đã đến ban bình an cho các môn đệ vào
chiều ngày phục sinh.
Khi chúng con đang hòai nghi bất tín, xin hãy tiếp
tục kiên nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã tỏ lòng khoan dung với
sự cứng lòng của Tô-ma.
Khi chúng con gặp thất bại trong cuộc sống, xin hãy đến
nâng đỡ ủi an chúng con, như Chúa đã đến phục vụ bánh và cá cho bảy môn đệ trên
bờ biển hồ Ga-li-lê xưa.
Lạy Chúa Giê-su phục sinh, xin hãy tỏ mình ra cho chúng
con thấy Chúa đang hiện thân nơi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm
hồn, để chúng con quảng đại chia sẻ cơm bánh vật chất và nhiệt tình phục vụ họ
như phục vụ chính Chúa, hầu sau này chúng con sẽ được Chúa liệt vào hàng các
chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM