CHÚA NHẬT 7
PHỤC SINH
LỄ THĂNG THIÊN
Cv 1,1-11 ; Ep
1,17-23 ; Mc 16,15-20
CHÚA VỀ TRỜI
TRAO SỨ MỆNH LOAN BÁO TIN MỪNG CHO HỘI THÁNH
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo
những ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói
được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống
nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những
người bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong,
Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn
các Tông đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với
các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao
giảng.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông
đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để ai tin
và chịu phép rửa thì được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu
độ của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án là bị loại
khỏi Nước Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông đồ bằng việc ban quyền làm
phép lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời. Còn các Tông đồ
thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công
bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng
cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà
Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại trao sứ mạng phổ quát
“loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng (
Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức
Giê-su theo hai nghĩa: Một là “chính Tin Mừng được Đức Giê-su công bố.
Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm
chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý
nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ
biến đổi mọi tạo vật nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh
21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức
Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha
tội và ơn tái sinh để nên con người mới và nên dưỡng tử của Thiên
Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời.+ Còn ai không tin thì
sẽ bị kết án: Thực ra,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng
để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ
không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên
Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su,
nên bị khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su
nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những
ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì
Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh
hồn. Chỉ những kẻ cố tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác và không
chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa
ngục được lập ra để dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng (x. Mt
25,41).
- C 17-18: +Đây là những
dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi
thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các
thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền
trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao
quyền làm các dấu lạ cho các ông. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ
được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và
dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay
lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm
65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện.
Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt
đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng
ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ
(x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ
bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên
bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành
bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ
Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv
14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn
mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt
tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo
ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần
phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20: +Chúa Giê-su được
rước lên trời: Như Ê-li-a
thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác
Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay
Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống
nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14),
được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x.
Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên Đàng ở đâu? Ta phải
làm gì để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) có
nghĩa là Hoa viên hay vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x St 2,8). Địa đàng
là một khu vườn hoan lạc nơi mà con người được sống trong
hạnh phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông Ađam và bà Evà đã liên kết
với nhau phạm tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây bị cấm, nên hai ông
bà đã bị đuổi ra khỏi Địa đàng, bị lọt vào trần gian là thung lũng đầy
nước mắt, gai góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng
hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến khôi phục lại tình trạng nguyên thủy cho
con người (x. St 3,15). Ngài sẽ biến nơi đau khổ lưu đầy này thành
Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is
51,3).
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa
Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại
Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng
trái đất (x. Cv 1,8). + Có Chúa cùng hoạt động với các ông...: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn
hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho Hội
thánh để tha tội cho người ta giống như Người đã làm (x Ga 20,21-22).
Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn hơn Người
là đi rao giảng cho các dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
4. CÂU HỎI: 1) Mầu nhiệm
Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi?
Các Tông đồ được Chúa sai đến với những ai? 2) Tin Mừng Đức Giê-su có
những nghĩa nào? 3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn
cứu độ của Đức Giê-su? 4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa
ngục? Những người chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành
có được hưởng ơn cứu độ không? 5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai
môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những
quyền nào? 6) Trước khi về trời, Đức Giê-su đã trao sứ mệnh loan Tin
Mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào? 7) Lời Chúa phán về
các dấu lạ kèm theo lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm
thế nào thời Giáo Hội Sơ Khai? 8) Thời Cựu Ước, ngôn sứ nào được
rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa
Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao? 9) Một
người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì có được hưởng ơn cứu
độ không? 10) So sánh lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”(x Mt 28,19) với Lời Chúa được ghi trong
sách Công Vụ “Hãy nên chứng nhân của Thầy...” (x Cv 1,8) giống và khác
nhau ra sao? 11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn ở với Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh để làm gì?
II.SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chúa Giê-su được rước lên trời ngự bên hữu
Thiên Chúa” (Mc 16,19):
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA
NIỀM TIN VÀO MỘT CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU:
Một vị Tù trưởng của một bộ tộc Phi Châu đau nặng gần
chết. Ông cho gọi ba người con có khả năng nắm giữ chức vụ tù trưởng của ông
đến bên giường và nói:
- Một trong ba người chúng con sẽ kế vị ta. Để biết xem
ai xứng đáng, các con hãy lên đỉnh núi thiêng của bộ tộc chúng ta tìm mang về một
linh vật nào quý giá nhất.
Mấy ngày sau người con thứ nhất trở về mang theo một
bức tượng bằng vàng ròng.
Người con thứ hai cũng mang về một viên ngọc to quý có
giá trị lớn.
Còn người con thứ ba thì trở về với hai bàn tay
không.
Ngạc nhiên, viên tù trưởng hỏi anh ta: “Linh vật quý giá nhất
con mang về đâu?”
Anh ta bình tĩnh trả lời:
- Thưa cha. Khi leo lên tới đỉnh núi thiêng và đi tìm kiếm
báu vật như cha căn dặn, thì con đã khám phá ra phía sau rặng núi thiêng có một
rặng núi khác. Con vượt qua thì đã tìm thấy một miền đất mới rất phì nhiêu mầu
mỡ, có suối nước trong, cây cỏ xanh tươi với nhiều loài thú sinh sống. Theo con
nghĩ nếu bộ tộc chúng ta sống ở miền đất này thì sẽ trở nên hùng cường.
Nghe vậy viên tù trưởng rất vui và nói:
- Cha rất mừng khi đã tìm ra người thừa kế chức vị tù
trưởng bộ tộc là con. Con đã đem về cho chúng ta báu vật vô giá chính là niềm hy
vọng vào một tương lại tươi đẹp về một cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Không ai biết trước cuộc sống của mình ra sao sau khi
chết. Chỉ mình Đức Giêsu, là Con Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, mới mạc
khải cho chúng ta biết quê hương thực sự của chúng ta là nước trời đời sau: Một
Trời mới Đất mới như sau: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ
đã biến mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh là
Giê-ru-sa-lem mới, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương
trang điểm để đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to:
"Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ.
Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên
Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc,
kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất." (Kh 21,1-4).
2) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một
phi thuyền mang theo một người lên không gian và bay được ba vòng chung quanh
trái đất. Sau đó trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã nói với ký
giả của tờ New York Time của Mỹ như sau: " Để điều tra trên trời có Thiên
đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không
trung là: YOURI GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông
thấy những bóng đen dầy đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau đó chúng tôi
lại gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta:
"Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì
chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho
kỹ". Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của
Gagarine là sự thật: "Hư vô! Chỉ có Hư vô!" Rồi sau đó Krouchev kết
luận: "Vì thế chúng tôi không tin có đời sau".
Đó là cái nhìn của một người vô tín theo
chủ nghĩa duy vật. Cái nhìn đó không phải là cái nhìn của người có đức tin như
chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng
ta cũng tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống Thiên đàng, về một Nước
Trời hằng sống như sau: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại
đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao
giờ cùng”.
3) THIÊN ĐÀNG Ở
NGAY TRONG CUỘC SỐNG ĐỜI THƯỜNG:
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Triều
Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: "Triều Đại Thiên Chúa
không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không
nói: "Ở đây này! hay "Ở kia kìa! , vì này Triều Đại
Thiên Chúa đang ở giữa các ông." (Lc 17,20-21).
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một
cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau.
Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không
trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng
tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy
Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng
thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào
cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của
mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa
và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
4) TRUYỀN GIÁO
LÀ THẮP LÊN NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG NGƯỜI:
Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu người Anbani, được
sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy những người nghèo khổ
quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài lề đường. Sau khi chết xác liền
bị quẳng vào đống rác như một con vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia
đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người sống đói khát
không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn xả vào việc phục vụ người
nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi
tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ
rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu
mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời.
Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong
góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: “Ô,
cây đèn đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi
bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề
nghị: “Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho
ông không?” Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà
cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp trong căn lều. Ông trở nên
vui vẻ hơn. Ông đã đến thăm mọi người và được mọi người đến thăm. Cuộc đời của ông
đã vui trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không
thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên
ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch.
Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không
phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn
tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em.
Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống
săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau.
Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin
Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy
noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa
yêu thương phục vụ đi soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ
nhìn nhận ra nhau là anh em.
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su nhiều lần nói đến trời cao: Trời hay Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Chẳng
hạn : Trong kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện với Thiên Chúa
Cha là Đấng ngự trên trời (x. Mt 6,9) ; Người cũng dạy: “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy
những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16.45).
2) Đức Giêsu đã từ trời mà đến: Không ai
đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống để rồi
lại trở về trời (x. Ga 3,13 ; 6,62). Người là Bánh Hằng Sống từ
trời xuống, là bánh đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6,33).
3) Đức Giê-su đã được rước lên trời: Sau
khi sống lại, Đức Giê-su tuyên bố Người đã được ban “mọi quyền năng
trên trời dưới đất” (x. Mt 28,18), “Người là vị Thượng Tế thánh
thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao
vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời,
để giờ đây đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt
9,25). Qua hình ảnh được rước lên trời, Chúa Phục Sinh sẽ không còn
hiện ra với các tông đồ như trong thời gian 40 ngày qua. Từ đây, Người
sẽ hiện diện cách thiêng liêng, không bị lệ thuộc vào thời gian và
không gian như Người đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế” (Mt 28,20).
4) Niềm hy vọng lên Trời của chúng ta: Chúa Giê-su
lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại lần
thứ hai để đem họ về với Người (x. Ga 14,2-3). Thiên đàng là nơi trú
ngụ của Thiên Chúa mà thánh Phao-lô đã cảm thấy vui thoả khi được
chiêm ngắm những thực tại khôn tả (x 2 Cr 12,4); Là Vương Quốc dành
cho những người công chính được hưởng hạnh phúc muôn đời (x. Mt
25,34.46). Đây là Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập ở trần gian
và sẽ phát triển cho tới tầm mức viên mãn vào ngày Tận Thế khi Người
tái lâm, trở lại lần thứ hai trong uy quyền vinh quang. Thiên Đàng còn là
nơi dành cho tội nhân có đức tin vào Chúa Giê-su và có lòng sám hối cậy
trông vào lòng thương xót của Đức Giê-su, như kẻ trộm lành cùng chịu chết
với Chúa trên cây thập giá khi xưa (x. Lc 23,43).
5) Để
được vào Thiên đàng với Đức Giê-su sau này, các tín hữu phải làm gì ngay từ
hôm nay?
-MỘT là tin
Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và được tái sinh bởi nước và Thánh Thần
trong phép rửa tội.
-HAI là phải ăn
năn sám hối tội lỗi, từ bỏ các đam mê bất chính và quyết tâm
chừa cải các thói hư tật xấu.
-BA là phải
sống giới răn yêu thương là mến Chúa yêu người bằng cách năng nghĩ đến
tha nhân, khiêm tốn phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người
bệnh tật nghèo đói để trở nên môn
đệ đích thực của Đức Giê-su.
-BỐN là phải đi
con đường hẹp và leo dốc, từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Thiên
Chúa, sẵn sàng vác thập giá là
các tai nạn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
-NĂM là phải biết dùng
của cải vật chất Chúa ban để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân hầu
mua lấy Nước Trời đời sau.
-SÁU là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ truyền
giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa
bằng đời sống gương sáng ngay từ trong gia đình và ra ngoài xã
hội.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng
con mừng đại lễ Thăng Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh diện
tuyên xưng Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên
trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mở đường về trời cho chúng con, để
dọn chỗ cho chúng con và đến ngày tận thế Chúa sẽ trở lại để đem
chúng con lên trời với Chúa. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Quê hương
chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để dù đang sống giữa thế gian, nhưng
chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng con biết dùng của
cải đời này để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên trời, bằng việc chia
sẻ cơm bánh cho những người đói khát, quần áo cho những kẻ rách rưới, chữa
lành các bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những người đau khổ thể
xác cũng như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám hối trở về với Chúa...
như kinh “thương người” đã dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM