1.TIN
MỪNG : Mc 5,21-43
(21) Đức Giêsu
xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc
đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. (22) Có một ông trưởng hội đường tên là
Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người, (23) và
khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên
cháu, để nó được cứu thoát và được sống”. (24) Người liền ra đi với ông. Một
đám rất đông đi theo và chen lấn Người. (25) Có một bà kia bị băng huyết đã
mười hai năm, (26) bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia
bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. (27) Được nghe
đồn về Đức Giêsu, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo
của Người, (28) vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ vào được áo Người thôi, là sẽ được
cứu”.(29) Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.
(30) Ngay lúc đó, Đức Giêsu cảm thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra. Người
liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. (31) Các môn đệ
thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ vào
Tôi ?”. (32) Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. (33) Bà này
sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt
Người, và nói hết sự thật với Người. (34) Người nói với bà ta: “Này con, lòng
tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (35) Đức
Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con
gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (36) Nhưng Đức Giêsu nghe được câu
nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. (37)
Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông là
ông Gio-an. (38) Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta
khóc lóc, kêu la ầm ĩ. (39) Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và
khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!”. (40) Họ chế nhạo Người.
Nhưng Người bắt họ ra ngoài, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với
Người, vào nơi nó đang nằm. (41) Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”,
nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !”. (42) Lập tức con bé
đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức người ta kinh ngạc
sững sờ. (43) Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo
họ cho con bé ăn.
2.Ý CHÍNH :
Ông trưởng hội đường tên Gia-ia có đứa con gái đau nặng sắp chết đặt trọn niềm
tin vào Đức Giêsu nên đã được Người cho sống lại. Trong lúc đi đường, một phụ
nữ bị bệnh băng huyết cũng nhờ tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giêsu
nên cũng được lành bệnh. Điều này cho thấy: Đức Giêsu đến để giải thoát loài
người khỏi hậu quả của tội lỗi là bệnh tật và sự chết. Tuy nhiên, để được hưởng
ơn cứu độ ấy, người ta phải đặt trọn niềm tin vào Người.
3.CHÚ THÍCH :
-C 21-24 : +
Bờ Biển Hồ : Biển Hồ nói đây có nhiều tên: là Biển Hồ Ga-li-lê hay
Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1) hay Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). Đây là Biển Hồ có hình
bầu dục dài 21 km, rộng 12 km. Tại Biển Hồ này Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ
như: dẹp yên sóng gió (x. Mc 4,35-41), mẻ cá lạ lùng (x. Lc 5,4-7), đi trên mặt
biển (x. Ga 6,16-21). Cũng tại vùng Biển Hồ này, Đức Giêsu đã chữa lành các
bệnh nhân (x. Mt 14,14.35-36). Hai lần nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,15-21;
15,32-39).+ Viên trưởng hội đường: Là người phụ trách việc
phụng tự trong hội đường Do Thái. Khi đi giảng đạo, Đức Giêsu thường đến các
hội đường Do Thái vào ngày Sa-bát để rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh (x. Mt
4,23; Lc 4,31-37.44). + Ông ta
sụp xuống dưới chân Người và khẩn khoản nài xin: Thái độ
sụp xuống dưới chân Đức Giêsu và nài xin Người cho thấy đức tin mạnh mẽ của
ông. + “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó
được cứu thoát và được sống” : Đặt tay là khẳng định mối liên hệ
chặt chẽ giữa người đặt tay và vật hay người được đặt tay. Cử chỉ đặt tay trên
bệnh nhân ám chỉ các phép bí tích do Đức Giêsu lập ra sau này để ban ơn cứu độ
cho các tín hữu.
-C 25-28: + Bà kia bị băng huyết đã mười hai năm: Bệnh băng huyết là một loại bệnh phụ khoa, làm cho người
phụ nữ bị ra ô uế theo Luật. Bệnh nhân bị bệnh này không được đụng chạm tới ai
để tránh cho họ khỏi trở nên ô uế (x. Lv 15,25-27). + Bà lách qua đám
đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ
vào được áo Người thôi, là sẽ được cứu”: Chính nhờ tin vào quyền
năng và tình thương của Đức Giêsu, mà bà này đã vượt qua đám đông để tới gần
Đức Giêsu và bà còn dám vượt qua Lề Luật để đưa tay ra chạm vào áo của Người.
-C 29-31: +
Bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh: Chạm đến áo Đức Giêsu cho
thấy cử chỉ bên ngoài thân xác cũng có giá trị làm phát sinh đức tin trong tâm
hồn. Nhờ đức tin mà bệnh nhân được khỏi bệnh. + “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”:
Đức Giêsu muốn cho người phụ nữ ý thức rằng: chị ta được khỏi bệnh do quyền
năng phát xuất từ Người và do ý định của Người chủ động thực hiện. Câu hỏi của
Chúa còn có mục đích cho các môn đệ và đám đông dân chúng biết rõ về phép lạ
đó, để họ tin Người thực là Đấng Thiên Sai.
-C 32-34 : + Bà này sợ đến phát run, vì biết cái gì đã
xảy đến cho mình : Bà sợ vì việc làm của bà đã vi phạm Luật Mô-sê tưởng là
chỉ mình bà biết, nhưng đã bị Đức Giêsu phát hiện. + Bà đến phủ phục
trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người : Đức tin của người đàn
bà này lúc đầu chỉ là sự mê tín dị đoan. Nhưng giờ đây được Đức Giêsu quan tâm
sửa dạy, đã trở thành đức tin đúng đắn vững mạnh, thúc bách bà thêm can đảm đến
phủ phục và thú nhận sự thật với Người. + “Này con, lòng tin của con đã
cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” : Đức Giêsu
cho thấy chính Người đã chữa lành cho người đàn bà vì bà đã tin tưởng cậy trông
vào Người, chứ không phải cái áo Người mặc chữa lành bệnh cho bà.
-C 35-37 : + “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi
nữa ? : Qua
câu này, người nhà ông trưởng hội đường không tin Đức Giêsu có thể phục sinh kẻ
chết. Câu này cũng là dịp thử thách đức tin của ông Gia-ia. + “Ông đừng
sợ, chỉ cần tin thôi”: Sự im lặng của Gia-ia khi nghe báo tin con gái
ông đã chết, cho thấy ông vẫn kiên trì với đức tin. Vì thế, Đức Giêsu đã khích
lệ ông : “Chỉ cần tin thôi” hay “Cứ vững tin là được”. Qua câu này, Đức Giêsu
muốn cho Gia-ia đừng để đức tin bị chao đảo, như có lần Người đã nói : “Cái gì
cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23). + Người không cho ai
đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an :
Ba ông này luôn theo sát Đức Giêsu trong các biến cố quan trọng (x. Mc
5,37; 9,2; 14,33). Dù muốn giữ bí mật đối với đám đông, nhưng Đức Giêsu cũng
cho ba môn đệ thân tín đi theo để sau này họ kể lại cho hậu thế biết (x. Ga
19,35). Sở dĩ phải ba ông, vì theo Luật Mô-sê thì lời chứng của ba người mới có
giá trị (x. Đnl 19,15; Mt 18,16).
-C 38-40 : + “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy ?” : Những người khóc lóc kêu la nói đây là những người khóc
mướn. Họ được tang gia nhờ cậy để khóc than to tiếng mỗi khi có khách đến viếng
người chết. + Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy ! : Trong
Thánh Kinh, sự chết được diễn tả bằng nhiều kiểu nói : “Một số đã an nghỉ” (x.
1 Cr 15,6); “Về những ai đã an giấc ngàn thu” (x. 1 Tx 4,13); “an giấc trong
Đức Giêsu” (x. 1 Tx 4,14). Khi nghe biết La-da-rô chết, Đức Giêsu cũng nói :
“La-da-rô bạn của chúng ta đang yên giấc” (Ga 11,11). Ở đây, khi khẳng định cô
bé chưa chết, mà chỉ đang ngủ đó thôi, là Đức Giêsu báo trước việc Người sắp
cho em sống lại, được thức dậy sau một giấc ngủ. + Họ chế nhạo Người,
nhưng Người bắt họ ra ngoài : Sự kiện này cho thấy : Những người không
tin và chế nhạo thì không đáng được chứng kiến phép lạ như có lần Người đã nói
: “Không nên lấy của thánh mà ném cho chó. Cũng không nên vất ngọc trai trước
mặt con heo !”.+ Rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người,
vào nơi nó đang nằm : Chỉ có 5 người là cha mẹ cô bé, và ba môn
đệ là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là những kẻ có thiện chí và đức tin nên được
Người cho chứng kiến phép lạ để gia tăng đức tin. Vì “ai có sẽ được cho thêm để
nên dư dật !”.
-C 41-43 : + “Này bé, Thầy truyền cho con : Chỗi dậy
đi !”: Cũng
như khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời là mọi sự xuất hiện
(x. St 1,3.6.9.11.14), ở đây Đức Giêsu cũng chỉ ra lệnh là em bé kia lập tức
sống lại. Điều này chứng tỏ Đức Giêsu làm chủ trên cả người sống lẫn kẻ chết
(x. Mt 28,18). + Đức Giêsu nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc
ấy : Khi cấm các môn đệ không được nói ra phép lạ này là để tránh sự
bồng bột quá khích của dân Do Thái bấy giờ đang có quan niệm ái quốc cực đoan
về Đấng Thiên Sai. Phải chờ đến ngày Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, ba môn đệ
này mới thuật lại phép lạ mà các ông đã chứng kiến.
4.CÂU HỎI : 1) Biển Hồ nói đây là biển gì ? Đức Giêsu đã
làm các phép lạ nào trên Biển Hồ và trong khu vực này ? 2) Trong thời gian
giảng đạo, Đức Giêsu thường làm gì tại các hội đường Do thái ? 3) Lòng tin của
ông trưởng hội đường vào Đức Giêsu biểu lộ qua thái độ nào ? 4) Cử chỉ đặt tay
của Đức Giêsu nói lên điều gì ? 5) Vì sao người đàn bà này lại bị Luật Mô-sê
cấm đụng chạm tới người khác ? 6) Lý do nào khiến bà ta dám vượt qua điều Luật
cấm để đến gần chạm vào áo Đức Giêsu ? 7) Tại sao Đức Giêsu lại hỏi đám đông :
”Ai đã sờ vào áo Tôi ?” 8) Tại sao người đàn bà bị bệnh lại sợ khi nghe Đức
Giêsu hỏi đám đông ? 9)Tại sao Đức Giêsu lại đòi người đàn bà phải công khai
thú nhận mình đã được khỏi bệnh ? 10) Đức Giêsu nói câu nào để xác định chính
Người chứ không phải áo Người đang mặc đã chữa bệnh cho người đàn bà ? 11) Đức
Giêsu đã nói gì với ông Gia-ia để khích lệ ông vững tin ? 12) Ba môn đệ nào
được chứng kiến phép lạ Đức Giêsu phuc sinh cô bé ? Ba ông này còn được đi theo
Chúa trong những trường hợp nào khác nữa ? 13) Trong Thánh Kinh có những câu
nào diễn tả sự chết như một giấc ngủ ? 14) Tại nhà Gia-ia, tại sao Đức Giêsu không
cho những kẻ cười nhạo Người ở lại ? Những ai đã được chứng kiến phép lạ Người
làm ? 15) Đức Giêsu đã làm gì để phục sinh cô bé ? 16) Tại sao Đức Giêsu cấm
Môn đệ nói ra phép lạ này ?
1. LỜI CHÚA: Người nói với bà ta :
“Lòng tin của con đã cứu con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) ĐỨC TIN VÂNG PHỤC CỦA ÁP-RA-HAM:
Ông Áp-ram khi đã già yếu đã gặp
được Đức Chúa và được Ngài chọn làm tổ phụ của một dòng giống tin vào Đức Chúa
đông như sao trời cát biển. Ngài cũng đổi tên ông từ Áp-ram trở thành
Áp-ra-ham, nghĩa là “Cha của những kẻ có lòng tin”. Tổ phụ Áp-ra-ham đã nêu
gương tin cậy vâng phục Đức Chúa. Mãi đến năm 90 tuổi Áp-ra-ham mới được Chúa
ban cho một đứa con trai đặt tên là I-sa-ác. Nhưng năm I-sa-ác được 12 tuổi,
Đức Chúa một lần nữa đã thử thách đức tin của ông bằng việc ra lệnh cho ông đem
đứa con trai duy nhất đi sát tế dâng cho Đức Chúa trên núi. Dù khó chấp nhận
điều này, nhưng Áp-ra-ham vẫn tín thác cậy trông và tuyệt đối vâng lời Đức
Chúa. Ông đã cùng con trai đi leo lên núi cao và lập một bàn thờ để giết con
làm lễ vật tiến dâng cho Đức Chúa, theo như phong tục của chư dân thời bấy giờ.
Thấy rõ đức tin tuyệt đối của Áp-ra-ham, Đức Chúa đã sai một thiên thần đến
ngăn tay ông lại và thay vì dâng con trai, ông được Chúa cho thế bằng một con
cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Rồi sau đó Đức Chúa đã tái xác nhận những
điều Ngài hứa với ông trước đó. Cuối cùng Áp-ra-ham đã thực sự trở thành tổ phụ
của một dân tộc tin vào Đức Chúa đông như sao trời cát biển (St 22,1-18).
2. TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN
PHÒNG CỦA CHÚA.
Một hôm lúc chiều tà trên bãi biển ẩm ướt, một thanh niên
đang đi bách bộ với Chúa Giêsu, hai Thầy trò vừa đi vừa đàm đạo với nhau. Trên
mặt cát ướt đều in lại bốn dấu bàn chân của hai thầy trò. Khi đi ngược lại,
chàng thanh niên rất ngạc nhiên khi thấy trên mặt cát lúc thì có 4 dấu chân của
hai thầy trò, nhưng có lúc lại chỉ thấy còn hai dấu chân. Chàng ta nghĩ đó là
hai dấu chân của mình nên hỏi Chúa: “Lạy Thầy, khi nãy Thầy ở đâu để con phải
đi một mình như thế ?” Chúa Giêsu liền trả lời: “Con hãy nhìn kỹ lại xem hai dấu
chân đó là của ai ?” Sau khi quan sát kỹ, chàng ta công nhận là hai dấu chân của
Chúa. Nhưng chàng lại tiếp tục hỏi: “Vậy lạy Chúa, con đang ở đâu trong lúc
Chúa đi một mình như thế?”. Đức Giêsu liền âu yếm trả lời anh rằng: “Hỡi con,
trong những lúc con bị lo âu phiền não, con không thể tự bước đi được. Đó là
lúc Thầy phải bồng ẵm con trên đôi tay của Thầy đó !”.
3) PHẢI THỰC LÒNG KHI CẦU XIN:
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm
ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng :
"Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn
sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư,
sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ :
"Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng
mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe.
Bà không muốn chấp nhận những gì bà đã cầu nguyện.
4) ĐỨC TIN CỦA
NGƯỜI MẠNH TIN SẼ CỦNG CỐ CHO NGƯỜI YẾU TIN:
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Budapest nước Hungary để
trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà vị linh
mục. Bước vào phòng, sau khi đóng xập cửa lại, anh ta chỉ lên cây thánh giá
treo trên tường và nói với vị linh mục:
- Này, ông có biết không, cái đó là một sự dối trá,
mê hoặc dân nghèo để bọn người giàu kìm hãm họ trong sự ngu dốt. Bây giờ ở đây chỉ
có ông và tôi, Vậy ông hãy thú nhận là ông không hề tin vào
ông Giê-su chết trên thập giá kia là Con Thiên Chúa.
Vị linh mục điềm tĩnh
trả lời:
- Tôi thật sự vững tin như thế !
Viên sĩ quan liền rút súng ra và bảo:
- Ông đừng có đùa với tôi! Nếu ông không khẳng định đó là
sự dốt trá, tôi sẽ giết ông ngay!
Vị linh mục đứng thẳng
người, nhìn sâu vào đôi mắt anh ta và dõng dạc trả lời:
- Tôi không thể nói khác được. Đức Giê-su
thật sự là Con Thiên Chúa!
Thật bất ngờ, nghe đến đây, viên sĩ quan liền buông tay ra
để rơi khẩu súng xuống nền nhà, chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục
vừa khóc vừa nói :
- Xin lỗi cha, con chỉ
muốn thử xem cha có tin thực sự không! Đúng thế, con
cũng đã âm thầm tin Chúa nhiều năm qua giống như cha ! Giờ đây, con
đã khám phá ra rằng: Vẫn có ít nhất một người đã dám
chết vì đức tin
của mình, chính cha đã củng cố đức tin yếu
kém của con!
3. THẢO LUẬN : Một tín hữu gặp gian nan thử thách lại chỉ
biết xin khấn, mà không cố gắng phấn đấu làm hết sức để vượt qua, thì có đức
tin mạnh không ? Đó có phải là thái độ tin thác vào lòng Chúa thương xót của Chúa
không ? Tại sao ?
4. SUY NIỆM :
1) Tầm quan trọng của Đức Tin để được ơn chữa lành:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại
hai phép lạ nói lên tầm quan trọng của Đức tin nếu chúng ta muốn được ơn Chúa
cứu độ:
- Phép lạ thứ nhất là người đàn bà
bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm. Nhờ có đức tin mạnh vào tình thương và
quyền năng của Đức Giê-su, nên cuối cùng bà đã được Người chữa cho lành bệnh
loạn huyết.
- Phép lạ thứ hai là một bé gái mới
chết đang nằm trên giường. Đức Giêsu đã được cha đứa bé là ông trưởng hội đường
Gia-ia mời đến nhà để cứu chữa cho đứa con gái của ông sắp bị chết. Dù đứa bé
đã chết, nhưng nhờ vững tin vào lời Đức Giê-su: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin
thôi”. Ông trưởng hội đường đã không nản lòng bỏ cuộc và tiếp tục đưa Người đến
nhà. Cuối cùng nhờ vững tin vào tình thương và quyền năng của Đức Giê-su mà bé
gái con ông đã được Người truyền cho sống lại: “Ta-li-tha kum”: “Này bé, Thầy
truyền cho con: Trỗi dậy đi!” (Mc 5,41).
Trong cả hai phép lạ này, đức tin
của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và đức tin của viên trưởng hội đường Gia-ia
là điều tối cần để nhận được ơn cứu độ của Đức Giê-su.
2) Đức tin của người phụ nữ bị loạn huyết: Loạn huyết là một chứng bệnh nhơ
uế. Người Do thái không những coi đó là bệnh nhơ uế về mặt thể lý mà còn coi
bệnh này là một thứ gây ô uế về phạm vi luân lý nữa. Cho nên Luật Mô-sê cấm
những kẻ mắc bệnh này đụng chạm tới người khác. Vì bệnh nhân mắc bệnh này chạm tới ai thì người
ấy liền trở nên ô uế. Người phụ nữ bị bệnh loạn huyết trong Tin Mừng hôm nay
không dám kêu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho mình, vì bà sợ nếu để người khác biết
bà mắc chứng bệnh nhơ uế này thì bà sẽ lập tức bị xua đuổi khỏi đám đông. Bà
định tâm sẽ giữ im lặng tiến gần đến bên Chúa để chỉ cần sờ vào áo của Người
thôi là bà sẽ được khỏi bệnh. Quả thật, bà đã được Chúa chữa cho khỏi bệnh.
Nhưng Người muốn bà phải can đảm tuyên xưng đức tin để làm chứng cho Người. Bấy
giờ Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo Tôi ?”. Các môn
đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: “Ai đã sờ
vào Tôi ?”. Đức Giêsu ngó quanh để nhìn người phụ nữ làm điều đó. Bà này sợ
phát run lên, vì biết điều gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt
Người, và nói hết sự thật với Người. Người liền nói với bà ta: “Này con, lòng tin
của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi bệnh” (Mc 5,30-34).
3) Đức tin của ông Gia-ia: Ông là trưởng của một hội đường Do
thái. Ông tin vào quyền năng và tình thương của Đức Giê-su nên khi có đứa con
gái bị bệnh nặng gần chết, ông đã đến kêu xin Đức Giê-su mau đến nhà chữa bệnh
cho con ông. Trong lúc cùng đi với Đức Giê-su về nhà, thì ông Gia-ia đã nghe
tin con gái ông đã chết! Nhưng Gia-ia đã không nản lòng bỏ cuộc. Ông đã được
nghe lời Đức Giêsu động viên: "Đừng sợ, cứ tin". Ông đã tin vào lời
Chúa, và cuối cùng con gái ông tuy đã chết, nhưng đã được trỗi dậy sau lời
truyền phán của Đức Giê-su: “Này bé, Thầy truyền cho con: Trỗi dậy đi !” (Mc
5,41). Chính nhờ ông Gia-ia biết vững tin vào vào quyền năng và tình thương của
Đức Giê-su, mà đứa con gái của ông đã nhận được ơn Chúa cứu độ.
4) Sống đức tin
trong cuộc sống hôm nay:
- “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con, kẻo chúng con
chết mất!” (Mt 8,25):
Đức tin là một nhân đức quan trọng nhất giúp chúng ta đặt
trọn niềm tín thác cậy trông vào tình thương quan phòng và quyền năng vô biên
của Chúa Giê-su. Mỗi khi gặp những điều khó khăn trái ý, hay khi đối diện với
những vấn đề vượt quá sức tự nhiên của
mình. Như các môn đệ Chúa xưa, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu Chúa đang ngủ yên
trong tâm hồn chúng ta. Hãy thưa với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa. Xin cứu chúng con,
kẻo chúng con chết mất!” (Mt 8,25). Chúa có thể cũng sẽ quở trách đức tin yếu
kém của chúng ta: “Sao nhát thế ? Làm
sao anh em vẫn chưa có lòng tin ?” (Mc 4,40). Nhưng đồng thời Người sẽ
cũng sẽ thương ra tay thực hiện những điều lạ lùng để cứu thoát chúng ta. “Vì
đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
- “Ông đừng sợ,
chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36):
Có nhiều người khi gặp phải những tình huống khó khăn mà
cầu xin Chúa không được như ý nên thường ngã lòng cậy trông, không còn cầu xin
gì nữa. Khi gặp phải tình huống ấy, chúng ta hãy nghe lời Đức Giê-su trấn an
ông Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”. Nếu điều chúng ta xin thực sự hữu
ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, thì chắc chắn Chúa sẽ ban ơn theo ý
chúng ta xin, như lời Chúa Giê-su đã nói về tình thương của Thiên Chúa: “Vậy
nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành,
phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho
những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7,11).
- “Đừng theo ý
con một xin vâng ý Cha” (Mt 26,39):
Khi tin vào Đức Giê-su, là chúng ta hãy noi gương Người
để bỏ cái tôi ích kỷ tự mãn của mình, để đi con đường hẹp, chấp nhận vác tập
giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, đừng cầu theo ý
riêng mình, nhưng hãy cầu xin theo thánh ý Chúa Cha noi gương Chúa Giê-su:
“Đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”. Chúng ta cũng hãy năng cầu nguyện theo
kinh Lạy Cha. Hãy cầu xin cho ta nên khí cụ bình an của Chúa như lời Kinh Hòa
Bình của thánh Phan-xi-cô: “Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng
sự Chúa trong mọi người…”.
- Phải sẵn sàng cộng tác với ơn Chúa:
Trong các phép lạ của Chúa, chúng ta thấy luôn có sự cộng
tác của con người. Chẳng hạn: Trong tiệc cưới Cana, Chúa Giê-su chỉ làm phép lạ
khi người ta đã "múc nước đổ đầy các chum" (Ga 2,7); Trong phép lạ về
nhân bánh ra nhiều, Chúa chỉ làm cho bánh hóa nhiều khi có “5 chiếc bánh và 2
con cá" (Mc 6,35-43); Khi chữa mắt cho người mù, Người chỉ thoa bùn vào
mắt anh, còn chính anh mù phải đi rửa ở hồ Silôê mới được sáng mắt (Ga 9,1-40);
Trong cuộc sống đời thường, Chúa luôn muốn cho chúng ta sử dụng hết các khả
năng của chúng ta, và Chúa chỉ can thiệp khi cần mà thôi như câu ngạn ngữ: “Hãy
thắp lên một ngọn đèn, con hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
- Tất cả đều là
hồng ân: Sau khi kết thúc công việc, chúng
ta phải tạ ơn Chúa khi được thành công, và nếu chẳng may bị thất bại, chúng ta
cũng vẫn tạ ơn Chúa. Vì với cái nhìn đức tin thì : “Chúa có thể rút từ sự dữ ra
sự lành” và “Mọi sự đều là hồng ân”. Tất cả những gì xảy đến cho ta đều là hồng
ân của Chúa ban và đều sinh ích cho phần rỗi đời đời của ta.
5.LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊSU. Nhiều lần con đã đến nhà thờ cầu nguyện
và tham dự thánh lễ. Tai con đã bao lần được nghe Lời Chúa dạy, bàn tay và môi
miệng con đã nhiều lần được chạm đến Mình Máu Chúa, thế mà sao con vẫn chưa
được khỏi các đam mê tội lỗi. Xin hãy gia tăng lòng tin cậy mến và sự quyết tâm
xa lánh dịp tội cho con, nhờ đó con hy vọng sẽ được ơn Chúa chữa lành như người
phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM