Đẹp Thay Sứ Mạng Chúa Sai Đi
Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XV – B
(Mc 6, 7 - 13)
Tiên tri là người được Thiên Chúa soi sáng và
sai đến nói cho người ta nhân danh Thiên Chúa, truyền đạt các mệnh lệnh của
Ngài, có thể là lời cảnh cáo hay lời hứa cho dân.
Không ít lần Thánh Kinh đã nhắc đến cảnh dân
Do thái bị lưu đày, sầu khổ, và các ngôn sứ được phái tới để loan báo cho dân một
niềm hy vọng hay niềm vui cứu thoát. Tiên tri Êgiêkien, Isaiah, Giêrêmia đã
loan báo về lòng thương xót cảm thông của Thiên Chúa đối với nỗi khổ của dân,
và Chúa ra tay cứu thoát.
Thế nhưng không ít lần các tiên tri cũng vạch
trần nỗi thống khổ của dân là do họ đã bỏ Thiên Chúa. Các ngài can đảm lên tiếng
phê phán, cảnh cáo lối sống sai lạc, và báo trước một hình phạt sẽ sảy đến hoặc
sẽ kéo dài nếu người ta không đổi mới cuộc đời. Tiên tri Amos là một bằng chứng.
Ơn gọi của Amos
Tên Amos có nghĩa là “gánh nặng” hay “người
gánh vác nặng nhọc”. Ông quê làng Tekoa, một xóm nhỏ phía Nam
Giêrusalem, nay đã hoang phế và không còn lưu lại một dấu vết nào, làng này
cách Bethlehem chừng vài dặm. Chính ông cho biết ông sống bằng nghề chăn
súc vật, trồng cây sung. “Lời của Amos. Ông là một trong những người chăn cừu tại Tơcôa …” (Amos
1,1). Lời Amos trả lời ông Amátgia :
“Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ
là người chăn nuôi súc vật
và chăm sóc cây sung”(Amos 7,14). Mặc dù ông đang chăn cừu,
nhưng Chúa đã túm lấy ông, Chúa lôi ông đi và bắt ông làm tiên tri, với sứ mệnh
nặng nhọc đúng với tên của ông.
Ông đâu muốn làm ngôn sứ vì ông an phận với
cương vị một nông dân. Ông bị bắt làm ngôn sứ : “Hãy đi tuyên sấm cho
Israel dân Ta” (Am 7, 15). Amos thổ lộ biết : ông không muốn được người
ta xưng tụng là ngôn sứ, mà chỉ là một nông dân thi hành những gì Thiên Chúa
truyền dạy ông phải làm, là “đi tuyên sấm
cho Israel dân Chúa”. Amos được
Chúa chọn gọi làm ngôn sứ vào thời vua Uzziah coi sóc vuơng quốc Giuda ở miền
Nam, tức vào khoảng năm 791 đến 740 trước TC. Lúc đó Giêrôbôam làm vua
vương quốc Israel miền Bắc ( năm 793 đến năm 753 trước Chúa Giêsu giáng sinh. Thời
điểm Amos lên tiếng nói : “Ông đã thấy thị kiến liên quan đến Ítraen, dưới
thời Uzziah làm vua nước Giuđa, và Giêrôbôam con vua Giôsias làm vua nước
Ítraen, hai năm trước trận động đất” ( Amos 1,1).
Chúng ta biết những ngôn sứ chân chính, ngôn
sứ thật bao giờ cũng bị ghen ghét. Thời Amos, các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng
khó chịu và không muốn thấy Amos hiện diện tại miền đất của họ nữa. Đứng
trước nền đạo đức xuống cấp và nền luân lý suy đồi, ngôn sứ Amos tố cáo mọi cấp
bậc trong dân Chúa đồng thời cảnh báo họ sẽ bị phạt nếu không thay đổi đời sống.
Amos đã làm tốt các công việc Chúa muốn: ông không tự mình nói gì và làm gì
ngoài lệnh của Thiên Chúa.
Đẹp thay sứ mạng Tông Đồ
Tin Mừng Marcô thuật lại cho chúng ta việc
Chúa Giêsu sai mười hai Tông Đồ cứ từng hai đến hai một đi loan báo Tin Mừng.
Tin Mừng ấy là Thiên Chúa Cha đã yêu thương loài người bằng tình yêu vô hạn,
Ngài ban tặng sự sống cho chúng ta để chúng ta sống và hạnh phúc luôn mãi. Tin
Mừng này dành cho tất cả mọi người, không một ai ở ngoài lời mời gọi cứu chuộc
của Thiên Chúa, và cũng không một ai bị loại trừ khỏi Tình yêu của Chúa. Tin Mừng
này phải được loan đi đến tận cùng thế giới. Chúng ta phải công bố niềm vui và
ơn cứu rỗi phổ quát của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã tái tạo con người,
đã chết và sống lại để cho con người được sống.
Những người được sai
đi, Chúa trao cho “quyền trên các thân ô
uế” (Mc 6, 7) và một hành trang “hầu
như không có gì”. Người còn ra lệnh cho họ “đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền
trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo” (Mc 6,8) để cho họ thấy rằng,
hiệu quả của việc rao giảng Tin Mừng sẽ không đến từ sự ảnh hưởng của con người
hay vật chất, mà là từ quyền năng của Thiên Chúa, như lời Đức Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II nói : " Thiên Chúa
được truyền cảm hứng trong lòng người ta do ân sủng của Chúa Thánh Thần".
Niềm
vui tông đồ
Vào
buổi bình minh của thế kỷ XXI, Tin Mừng còn chưa đến mọi nơi, rất cần đến lòng
nhiệt thành truyền giáo.
Chúng
ta đã nhận được Tin Mừng, chúng ta có biết giá trị thực sự của Tin Mừng không?
Chúng ta có ý thức về điều đó không ? Chúng ta có biết ơn không? Chúng ta hãy
xem xét chính mình, người đã lãnh nhận Phép rửa tội, chúng ta co loan báo Tin
Mừng bằng gương mẫu của chúng ta chưa?
Tông huấn Niềm
vui Tin Mừng, số 27. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại lời Thánh
Giáo hoàng Gioan Phaolô II: “Mọi canh tân
trong Hội Thánh phải có truyền giáo như mục đích, để không rơi vào nguy cơ của
một Hội Thánh quy về mình. Quan trọng hơn, đây là dịp tốt nhất để khơi dậy ơn
ban và huyền nhiệm ơn gọi Truyền giáo Ngôi Lời”.
Chúng
ta hãy khám phá ra vẻ đẹp đích thực của sứ giả loan báo Tin Mừng qua những nét
đặc trưng liên quan đến Nguồn gốc ơn gọi, nội dung rao giảng, mục đích hướng
tới và cả Thách đố.
Không
ai tự mình trở thành sứ giả Tin Mừng do địa vị, tài năng, công trạng… Chính
là “do lòng thương xót
và được tuyển chọn” (Thánh Bêđa Khả kính), được Chúa thương
tha thứ và đưa vào sứ vụ của Người (Missio
Dei).
Sứ giả
loan báo Lời từ Thiên Chúa, Hồng ân và Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không
phải là một loại thông tin. Tin Mừng là một sứ điệp có bản chất hoàn toàn khác
biệt. Tin Mừng chiếu tỏa vẻ đẹp vô tân của lòng thương xót Chúa thể hiện nơi
Đức Giêsu Kitô. Tin Mừng không phải là sản phẩm do con người suy tư hay làm ra
(Gl 1,11). Tin Mừng đã được Đức Giêsu Kitô mạc khải, được tỏ bày do tình bằng
hữu, nên chỉ có thể lãnh nhận và loan báo trung thành.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ