CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN B
Cn 9,1-6 ; Ep 5,15-20 ; Ga 6,51-58
ĐÓN NHẬN THÁNH THỂ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 6,51-58
(51)
Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống
muôn đời. Và Bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt Tôi đây, để cho thế
gian được sống”. (52) Người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau.
Họ nói: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ?”
(53) Đức Giê-su nói với họ: “Thật, Tôi bảo thật các ông: Nếu các ông
không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các ông không có sự sống nơi
mình”. (54) Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và
Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì Thịt Tôi thật
là của ăn, và Máu Tôi thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và uống Máu
Tôi thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa
Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy. (58) Đây là
Bánh từ trời xuống. Không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ
đã chết. Ai ăn Bánh này, sẽ được sống muôn đời.
2. Ý CHÍNH : Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều, tại hội đường
thành Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đã giảng về Bánh Hằng Sống là bí
tích Thánh Thể. Nội dung bài giảng được tóm lược như sau: Ai ăn Thịt
và uống Máu Người, tức là lãnh nhận bí tích Thánh Thể mà Người
sẽ thiết lập, thì ở đời này sẽ được kết hiệp mật thiết với Người,
được tham phần vào sự sống thần linh của Người, và đến ngày tận thế
sẽ được sống lại để hưởng hạnh phúc muôn đời với Người.
3. CHÚ THÍCH :
- C 51 : + Tôi là Bánh Hằng
Sống từ trời xuống...: Đức Giê-su tự xưng là tấm Bánh với hai
đặc tính thần linh là “hằng sống” và “từ trời xuống”. + Bánh
Tôi sẽ ban tặng: Sẽ ban là chưa ban ngay lúc này, nhưng sẽ ban
khi lập bí tích Thánh Thể vào bữa Tiệc Ly sau này (x. Mt 26,26-28). +
Chính là Thịt Tôi đây : Thịt (Sarx) trong ngôn ngữ Hy Lạp ám
chỉ con người toàn diện gồm cả xác lẫn hồn. Thịt ở đây cũng chính
là Thịt (Sarx) trong câu: “Ngôi Lời đã hóa thành “nhục thể” – hay là
“Thịt” (Sarx) hoặc “người phàm” (Sarx) - và cư ngụ giữa chúng ta (Ga
1,14). Ở đây, “Bánh” được liên kết với “Thịt” và với “Sự Sống”, là
hai đặc tính của bí tích Thánh Thể. + Cho thế gian được sống : Thịt
của Đức Giê-su tức là bánh Thánh Thể, là lương thực thần linh, sẽ
đem lại hiệu quả là ban sự sống cho người lãnh nhận.
- C 52-53 : + Làm sao ông
này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông ta được ? : Dân chúng Do
Thái nghe Đức Giê-su giảng và đã hiểu đúng ý của Người. Đó là
Người cho người ta ăn chính Thịt của Người. Họ thắc mắc và phản đối
Đức Giê-su vì nghĩ rằng Người đã hóa điên khùng nên mới ăn nói bừa
bãi như vậy. + Thật, Tôi bảo thật các ông: Trước sự thắc
mắc về việc cho người ta ăn Thịt của mình, Đức Giê-su đã không làm
dịu kiểu nói này lại và cũng không cải chính để tránh cho họ hiểu
sai ý mình, nhưng Người lại tiếp tục xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật
các ông”. + Nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu Con Người, các
ông không có sự sống nơi mình : Đây là cách diễn tả khác nhằm
nhấn mạnh sự thật này: người ta chỉ có sự sống của Chúa nơi bản
thân khi lãnh nhận bí tích Thánh Thể, tức là ăn Thịt và uống Máu
của Người.
- C 54-56 : + Ai ăn Thịt và
uống Máu Tôi thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống
lại vào ngày sau hết : Kẻ lãnh nhận Thịt Máu Đức Giê-su trong
bí tích Thánh Thể sẽ được tham phần vào sự sống đời đời và được
Đức Giê-su cho sống lại vào ngày tận thế. + Thịt Tôi thật là
của ăn, và Máu Tôi thật là của uống : Trong bốn câu liền (c.
53.54.55.56), Tin Mừng Gio-an dùng cặp từ: Thịt (Sarx) và Máu (Haima)
để chỉ con người toàn diện của Đức Giê-su. + Thì ở lại trong
Tôi và Tôi ở lại trong người ấy : Hiệu quả của việc lãnh bí
tích Thánh Thể là người ta được kết hiệp thân mật với Chúa Giê-su.
Nghĩa là được “ở lại” trong Người, đón nhận sự sống dồi dào của
Người và trở thành bạn tâm giao của Người, như thánh Phao-lô đã viết
: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong
tôi” (Gl 2,20).
- C 57-59 : + Như Chúa Cha
là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì
kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy : Đức Giê-su
nói đến sự sống siêu nhiên nhờ bí tích Thánh Thể. Ai ăn Bánh Thánh
Thể thì sẽ được tham phần vào sự sống siêu nhiên phát xuất từ nơi
Chúa Cha thông qua Chúa Giê-su. + Đây là Bánh từ trời xuống. Không
phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh này
sẽ được sống muôn đời : Sự sống siêu nhiên mà Bánh Thánh Thể
ban cho người lãnh nhận, khác với sự sống tự nhiên thể xác do bánh
Man-na mang lại. Vì thế mà dân Ít-ra-en xưa, dù đã ăn Man-na trong sa
mạc nhưng vẫn bị chết do tội đã phạm. Còn ai ăn Bánh do Chúa Giê-su
ban trong bí tích Thánh Thể thì sẽ được sống đời đời, nhờ đón nhận
được sự sống siêu nhiên của Người.
4.
CÂU HỎI : 1) Bánh Thánh do Đức Giê-su hứa ban có hai đặc tính thần thiêng
nào ? 2) Bánh đó sẽ được ban khi nào và là Bánh gì ? 3) Từ Thịt
(Sarx) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là gì ? 4) Khi Đức Giê-su hứa sẽ ban
Bánh Hằng Sống là Thịt của Người trong bí tích Thánh Thể, người Do
Thái đã hiểu ra sao ? Có hiểu đúng với ý Người muốn nói không ? Tại sao
? 5) Khi thấy họ phản đối, Đức Giê-su không những không thay đổi điều
vừa nói hay nói nhẹ đi, mà Người càng nhấn mạnh hơn qua câu nào ? 6) Ai
ăn Thịt uống Máu Đức Giê-su trong bí tích Thánh Thể sẽ nhận được hiệu
quả nào ? 7) Trong 4 câu liền (câu 53.54.55.56), Đức Giê-su dùng hai từ
Thịt và Máu ám chỉ điều gì ? 8) Câu nào cho thấy hiệu quả của việc
ăn Thịt uống Máu Chúa Giê-su trong bí tích Thánh Thể ? Thánh Phao-lô
viết về sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su qua câu nào ? 9) Sự
sống siêu nhiên nhận được do bí tích Thánh Thể là sự sống nào ? 10) Sự
sống siêu nhiên nhận được từ Bánh Thánh Thể thời Tân ước với sự sống tự
nhiên từ Manna thời Cựu ước khác nhau thế nào ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Bánh Tôi sẽ ban tặng chính
là Thịt Tôi đây để cho thế gian được sống” (Ga 6,51).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MẸ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT CHO CON
ĐƯỢC SỐNG:
Vào cuối thế kỷ trước, bên Anh
quốc có phong trào di dân sang lập nghiệp tại Úc Châu. Trên một chiếc
thuyền buồm chở người di cư, có một bà mẹ trẻ góa chồng, mang theo
một đứa con thơ còn bú sữa mẹ. Sau khi thuyền khởi hành được mấy ngày,
thì một cơn bão bất ngờ ập đến làm biển động dữ dội, con thuyền
bị sóng đánh tơi tả và cột buồm đã bị gãy. Từ đó, con thuyền lênh
đênh trôi trên mặt biển nhiều ngày. Lương thực trên thuyền đã dần dần
cạn kiệt. Nhiều người bắt đầu bị chết đói và sau đó bị quăng xuống biển.
Vào một buổi sáng người ta phát hiện ra bà mẹ trẻ kia cũng đã bị
chết đói, trong khi đứa con nằm bên cạnh vẫn còn sống. Thì ra bà mẹ
này trước khi chết đã dùng dao cứa đứt đầu ngón tay út và cho con
bú máu của mình thay cho sữa mẹ đã hết. Bà đã hy sinh chịu chết để cho
đứa con của bà được sống ! Về sau đứa trẻ kia lớn lên đã trở thành một
vị dân biểu nổi tiếng trong vùng. Ông luôn nhớ đến công ơn trời biển của
người mẹ đã hy sinh lấy máu mình để làm lương thực nuôi ông khỏi bị
chết. Rồi một hôm, ông đã đứng trên diễn đàn quốc hội kể lại câu
chuyện thời thơ ấu của mình, và đề nghị quốc hội chọn một ngày
trong năm để tôn vinh các bà mẹ, nhắc nhở con cái phải hiếu thảo với
mẹ của mình. Đó là nguồn gốc ngày Quốc Tế Các Bà Mẹ hiện nay.
2) CƠM BÁNH ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐANG ĐÓI CÓ GIÁ TRỊ NGÀN LẦN
HƠN KIM CƯƠNG:
Đây là câu chuyện có thực của một
nhà thám hiểm. Sau mười ngày một mình băng qua sa mạc Phi châu, một nhà thám
hiểm nọ sắp kiệt sức vì bị lạc đường và đã ăn hết số lương thực mang theo. Ông
ta đi theo hướng mặt trời mọc, nhưng rồi đi đến chỗ nào cũng chỉ thấy cát và
cát. Cuối cùng, ông cũng đến được một ốc đảo có hồ nước và cây cỏ xanh tươi.
Sau khi uống nước no nê, ông lại lại bị cơn đói hành hạ. Đột nhiên ông thấy một
chiếc bị bằng da nằm lăn lóc ở gần chỗ đang ngồi. Hy vọng tìm được một chút lương
thực trong chiếc bị da kia để tiếp tục lên đường, nhưng thay vì thấy lương thực
ông lại chỉ thấy nhiều viên kim cương óng ánh rất đẹp. Ông cay đắng thốt lên
với nỗi thất vọng : “Những viên kim cương này đâu có giá trị gì khi ta sắp chết
đói ?” Nói rồi ông ôm chiếc bị da chứa kim cương thiếp ngủ vào cõi chết.
Ít lâu sau, một đoàn thám hiểm cũng băng
qua sa mạc, họ đã thấy một bộ xương người đang ngồi dựa vào tảng đá, hai tay ôm
chặt chiếc bị da, trong có nhiều viên kim cương quý giá, nhưng lại trở thành vô
ích đối với người bị đói đang cần được ăn.
3) CỬ HÀNH THÁNH LỄ TRONG NHÀ TÙ:
Đức Hồng y PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê NGUYỄN
VĂN THUẬN đã viết lại những trang hồi ký trong thời gian ngài bị biệt giam
trong tù. Ngài tóm gọn thành một tập sách nhỏ mang tựa đề "Năm chiếc bánh
và hai con cá" để chia sẻ cho giáo triều Rô-ma trong dịp tĩnh tâm mùa chay
thập niên 90. Ngài thú nhận, sức mạnh lớn nhất nâng đỡ ngài trong những năm
tháng tù ngục là được cử hành Thánh lễ cho dù lén lút, nhưng rất cảm động và
sâu lắng. Thánh lễ ngài dâng một mình trong bóng tối của nhà tù, không kèn
không trống, cũng chẳng có ánh đèn hay một bông hoa trang trí nào. Áo tù ngài
mặc thay cho áo lễ. Đôi bàn tay sần sùi của ngài đựng những giọt rượu nho thay
cho chén thánh. Bánh lễ chứa trong hộp đựng thuốc
ho. Những Thánh lễ rất âm thầm và giản đơn, không ồn ào, không một chút hoành
tráng bề ngoài, chẳng có ca đoàn hay người giúp lễ.. nhưng sao chép lại gần sát
với chính Thánh lễ mà Chúa Giê-su đã cử hành năm xưa trên thập giá.
4) VIỆC BÁC ÁI
TỪ THIỆN BẮT NGUỒN TỪ LÒNG MẾN BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Trong một cuộc họp mặt đông đảo các Kitô hữu tại một nhà
thờ ở Tây Đức để đón chào mẹ TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA, người ta đã dâng cho mẹ một
bó hoa rất đẹp. Bỡ ngỡ trước lòng quý mến và trọng kính mà người ta đã dành cho
mình, mẹ Têrêxa mới đầu tỏ ra hơi lúng túng, nhưng sau đó vài phút, với thái độ
đơn sơ quen thuộc, mẹ đã ôm bó hoa đi thẳng lên cung thánh, mẹ quỳ gối nơi bậc
bàn thờ rồi đặt bó hoa trước nhà tạm. Cử chỉ này cho thấy mẹ Têrêxa rất quý
trọng phép Thánh Thể, vì Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực mà từ đó
mẹ đã nhận được tình yêu và nghị lực cho cuộc sống dấn thân và phục vụ vô vị
lợi của mẹ.
Qua các hoạt động bác ái, mẹ Têrêxa và các nữ tu dòng của
mẹ đã nuôi dưỡng hàng ngàn trẻ em mồ côi, đã phục vụ hàng ngàn người nghèo đói,
đã chăm sóc, chữa trị hàng trăm ngàn bệnh nhân và an ủi hàng chục ngàn người
hấp hối. Nhưng vượt lên trên tất cả những hoạt động nhằm phục vụ cho sự sống
thể xác, mẹTêrêxa đã đặc biệt chú trọng đến một nhu cầu mà mẹ thường nhấn mạnh
và cho là căn bản, nó cần thiết hơn cả cơm ăn áo mặc nữa, nhu cầu đó là muốn
được chấp nhận và được yêu thương.
3. THẢO LUẬN : Mỗi người chúng ta cần làm gì để được biến
đổi nên tốt hơn sau mỗi lần rước lễ ?
4. SUY NIỆM :
Câu chuyện bà mẹ nuôi con bằng dòng máu của mình,
là hình ảnh tuyệt hảo nói lên tình thương của Chúa Giê-su khi lập bí
tích Thánh Thể. Người đã tự hiến mình trở thành Bánh thiêng nuôi dưỡng và ban
sự sống đời đời cho chúng ta. Vậy Bánh Thánh Thể là bánh gì?
1) Sứ mệnh của bánh
:
Bánh là lương thực có thể ăn được và giúp người
ta duy trì sự sống (Ga 6,51). Bánh không sống cho mình, mà luôn sống “vì
và cho” con người. Chúa Giê-su tự xưng mình là Bánh, vì Người đã tự
hủy bản thân, hy sinh chính mình để cho loài người chúng ta được sống.
Chỉ khi nào chúng ta sẵn sàng hy sinh bản thân cho tha nhân được sống,
thì bấy giờ ta mới trở thành tấm bánh giống như Bánh Thánh Thể của Chúa Giê-su.
2) Chúa Giê-su là
tấm Bánh Thánh Thể để người ta ăn :
Trong nhiều thế kỷ, Hội Thánh đã chủ trương chiêm
ngưỡng và thờ lạy Bánh Thánh Thể hơn là hãy cầm lấy mà ăn như lệnh
truyền của Chúa Giê-su. Động từ ăn được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
trong Tin Mừng hôm nay, như một lời mời gọi tha thiết của Chúa Giê-su
là: hãy siêng năng tham dự bữa tiệc Thánh Thể do Người khoản đãi, với
hai của ăn cao quý trên bàn thờ là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa.
3) Chúa Giê-su
cho biết ba hiệu quả của bí tích Thánh Thể
như sau:
- Một là họ sẽ được sống lại trong ngày tận thế và được
sống muôn đời: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và
Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết. Vì Thịt Tôi thật là
của ăn, và Máu Tôi thật là của uống” (Ga
6,54-55).
- Hai là sẽ phát sinh mối giây thân tình giữa Chúa và kẻ
ăn tiệc Thánh Thể: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi thì ở lại trong Tôi, và
Tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).
- Ba là sẽ được sống nhờ Người: “Như Chúa Cha là Đấng
Hằng Sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn
Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
4) Phải ăn Bánh
Thánh Thể thế nào để phát sinh công hiệu? :
Ngày nay tuy các tín hữu đã lên
rước lễ nhiều hơn, nhưng phần đông lại rước lễ cách hờ hững : Quả thật,
ít có vị khách quí nào lại bị chủ nhà tiếp đón lạnh nhạt như
Chúa Giê-su Thánh Thể ! Do đó, dù có năng tham dự thánh lễ và lên rước
lễ hằng ngày, nhưng nhiều tín hữu vẫn không gặp được Chúa Giê-su, không
nhận được biến đổi giống Chúa, nên họ vẫn sống vô cảm, ích kỷ, tự mãn, lười
biếng và vô trách nhiệm… như bao năm qua ! Cần đổi mới cách rước lễ để có thể
gặp gỡ Chúa, sống kết hiệp với Người và ngày một được ơn biến đổi nên giống Người
hơn.
5) Diễn tiến
một buổi cho bệnh nhân rước lễ tại gia:
Một nữ tu được cha sở nhờ mỗi sáng
Chúa Nhật mang Mình Thánh Chúa đến thăm viếng và cho
bệnh nhân rước lễ. Chị đã kể lại diễn tiến của một buổi
cho rước lễ như sau:
- Khi tới nơi, tôi ngồi xuống cạnh
cụ, làm dấu Thánh giá và đọc một đoạn trong bài Tin Mừng Chúa nhật, rồi nói lên
bài học Chúa muốn dạy qua bài Tin Mừng.
- Tiếp đến tôi và cụ cùng nhau đọc
kinh Lạy Cha như Chúa dạy.
- Rồi tôi giơ Mình Thánh lên và nói:
“Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự
tiệc Chiên Thiên Chúa”. Và cụ đáp lại: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào
nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
- Đoạn tôi trao Mình Thánh cho cụ và
cho cụ uống chút nước suối để rước hết mụn bánh thánh.
- Sau một lát thinh lặng, tôi giúp
cụ dâng lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể. Ước gì
Mình Thánh Chúa con vừa lãnh nhận, gia tăng sức khoẻ hồn xác cho con. Xin
thương chữa con mau lành bệnh. Xin ban ơn nâng đỡ con và giúp con được sống mãi
mãi với Chúa trên thiên đàng. Từ nay con xin hứa sẽ luôn nở nụ cười với người
chung quanh, sẵn sàng đón nhận mọi đau khổ trái ý gặp phải để đền tội con và
cầu xin cho một tội nhân được ơn trở về với Chúa, cho một người lương quen biết
được sớm nhận biết tin yêu Chúa để cũng được hưởng niềm vui ơn cứu độ với con.-
Amen”.
- Cuối cùng nói chuyện thân tình,
hứa luôn cầu nguyện và hẹn gặp lại vào tuần sau.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con cảm thấy có sự giống nhau giữa thân
phận làm Bánh của Chúa với thân phận làm người của con. Nhờ ăn Bánh
Thánh Thể của Chúa, con sẽ được biến hóa nên tấm bánh thơm ngon, được
bẻ ra để phục vụ tha nhân. Ước gì con dám đón Chúa vào vùng mờ tối
của lòng con, để sự hiện diện của Chúa làm cho con được bừng sáng
lửa tin yêu. Ước gì sau khi được đón Chúa vào lòng, con sẽ trở thành một Nhà
Tạm di động, luôn có Chúa là Tình Yêu, để chia sẻ tình yêu ấy cho tha
nhân, hầu sau này họ cũng được hưởng hạnh phúc đời đời với con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.-
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM