CN 3 MÙA VỌNG
B
Is
61,1-2a.10-11 ; 1 Tx 5,16-24 ; Ga 1,6-8.19-28
LÀM CHỨNG VỀ ÁNH SÁNG NOI GƯƠNG GIO-AN
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 1,6-8.19-28:
(c 6) Có một người được Chúa sai đến, tên là
Gio-an. (c 7-8) Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để
mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến
để làm chứng về ánh sáng. (c 19) Và đây là lời chứng của ông Gio-an:
Khi người Do Thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi
đến hỏi ông: “Ông là ai?”. (c 20) Ông tuyên bố thẳng thắn. Ông tuyên bố
rằng: “Tôi không phải là Đấng Ki-tô”. (c 21) Họ lại bảo ông: “Vậy thì
thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói: “Không phải”. -“Ông
có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không”. (c 22) Họ liền nói
với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người cử
chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?”. (c 23) Ông nói: “Tôi là
tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa
đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. (c 24) Trong nhóm được cử đi, có mấy
người thuộc phái Pha-ri-sêu. (c 25) Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm
phép Rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông
Ê-li-a hay vị ngôn sứ?”. (c 26) Ông Gio-an trả lời: “Tôi đây làm phép
Rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không
biết. (c 27) Người sẽ đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi quai dép
cho Người”. (c 28) Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông
Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép Rửa.
2. Ý CHÍNH:
Gio-an Tẩy Giả có sứ mạng đến trước dọn đường cho
Đấng Ki-tô Cứu Thế. Ông đã thi hành sứ mạng bằng việc làm chứng cho
Đấng Ki-tô là ánh sáng như sau: Ông không phải là Đấng Ki-tô mà chỉ là “Tiếng
kêu trong sa mạc: Hãy dọn đường đón Đức Chúa sắp đến” như I-sai-a đã tuyên sấm.
Gio-an dọn đường cho Đấng Thiên Sai bằng lời nói và việc làm: Ông kêu gọi mọi
người hãy ăn năn sám hối để dọn lòng đón Đấng Thiên Sai. Sám hối bằng việc ăn
năn thú tội và chịu phép rửa dìm mình trong nước sông Gio-đan. Gio-an làm chứng
về Đấng Thiên Sai là Đấng đã đến và đang ở giữa mọi người và ông không đáng làm
đầy tớ cởi quai dép cho Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 6: + Gio-an: Là con trai của hai ông bà Da-ca-ri-a và
Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét đã thụ thai cách lạ lùng nhờ quyền năng
Thiên Chúa (x. Lc 1,59-60). Tên Gio-an có nghĩa là “Chúa ban ơn”. Tên này
do sứ thần Chúa đã truyền lệnh cho ông Da-ca-ri-a trong đền thờ (x. Lc
1,13). Ngoài tên gọi Gio-an, ông còn có hai biệt danh là Tiền Hô và
Tẩy Giả. Tiền hô là người “đi trước dọn đường cho Đấng Ki-tô”
(x. Lc 1,17); Tẩy Giả là người “làm phép Rửa cho những người
đang mong chờ ơn cứu chuộc Ít-ra-en” (x. Lc 3,3).
- C 20-23): + Ê-li-a: Theo sách
Ma-la-ki-a (3,1-2) và Gíao Sĩ (48,10-11) thì Ê-li-a sẽ trở lại trước
khi Đấng Thiên Sai xuất hiện. Gio-an Tẩy Giả không nhận mình là Ê-li-a
theo nghĩa đen này. Điều này không trái ngược với lời Đức Giê-su
khẳng định: “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng phải đến trước” (x. Mt
11,14). Gio-an xuất hiện trong tinh thần của Ê-li-a, chứ không phải là
chính con người Ê-li-a bằng xương bằng thịt. + Ngôn sứ: Thực
ra, Gio-an cũng là một ngôn sứ của Thiên Chúa (x. Đnl 18,15). Nhưng ông
không phải là ngôn sứ như Mô-sê mà sách Đệ Nhị Luật đã nói đến. +
“Thế ông là ai...?”: Gio-an Tẩy Giả đã trả lời ông chỉ
là người Tiền Hô, đi trước dọn đường cho Đấng Thiên Sai.
- C 24-27: + “Vậy tại sao ông làm phép
rửa...?”: Gio-an trả lời rằng: Ông chỉ làm phép rửa để thanh
tẩy người ta bằng nước, chuẩn bị chờ đón Đấng Ki-tô sắp đến. Còn Đức
Ki-tô mới làm phép rửa thanh tẩy cho người ta trong Thánh Thần. Người
là Đấng quyền năng mà Gio-an không xứng đáng làm tôi tớ hầu hạ cởi quai
dép cho Người.
4. CÂU HỎI:
1)
Gio-an trong Tin mừng hôm nay là ai? Tên Gio-an nghĩa là gì và ai đã đặt tên
này cho ông? 2) Đức Giê-su đã khẳng định “Gio-an chính là Ê-li-a, đấng
phải đến trước” (x Mt 11,14). Vậy tại sao chính Gio-an lại nói mình
không phải là Ê-li-a hay ngôn sứ? 3) Gio-an tự xưng là gì và lý do ông làm phép rửa cho dân chúng?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên
là Gio-an. Ông đến để làm chứng và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông
mà tin”(Ga 1,6).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CON NGƯỜI CHỈ VUI THỰC SỰ KHI CÓ THIÊN CHÚA TÌNH YÊU
TRONG TÂM HỒN:
Tại một thành phố kia có một nghệ sĩ hài nổi tiếng. Người
nào dù đang buồn đến đâu, khó tính đến mấy nếu được xem nghệ sĩ biểu diễn thì
thế nào cũng phải bật cười.
Cũng trong thành phố ấy có một bác sĩ tâm lý nổi tiếng
chữa được mọi thứ tâm bệnh. Ngày nọ có một người đàn ông lớn tuổi, vẻ mặt buồn
rầu đến xin bác sĩ tâm lý tư vấn. Ông ta nói: “Thưa bác sĩ, tôi là một con
người bất hạnh. Cuộc đời tôi đầy những sự chán chường. Bác sĩ có cách nào làm
cho tôi vui lên được không?”
Bác sĩ tâm lý liền hỏi: “Thế ông có bị túng thiếu về tiền
bạc không?”
Ông ta đáp: “Thú thật, tôi là người thành đạt và khá giầu
có”.
Nhà tâm lý lại hỏi tiếp: “Thế còn gia đình vợ con thì sao?”
Ông ta gật đầu thừa nhận: “Tôi có một người vợ vừa đẹp
người lại vừa đẹp nết và có mấy đứa con ngoan ngoãn dễ thương”.
Sau khi hỏi để biết thêm một số điều khác, viên bác sĩ
tâm lý đã đề nghị cho ông ta một giải pháp: Tôi nghĩ ông nên đến xem các buổi
biểu diễn của một nghệ sĩ hài danh tiếng ngay trong thành phố. Chắc chắn
ông sẽ cảm thấy cười vui thỏa thích và sẽ không còn buồn nữa.
Nhưng viên bác sĩ lại rất ngạc nhiên khi nghe thân chủ
của mình nói: “Thưa bác sĩ, xin cám ơn bác sĩ. Nhưng... tôi chính là nghệ sĩ
hài nổi tiếng trong thành phố mà bác sĩ vừa nói đó!”
Câu chuyện nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực tế đúng như
vậy. Một người có biệt tài chọc cười người khác lại là nạn nhân của sự buồn
chán. Mặc dù ông ta sở hữu mọi thứ
ưu điểm mà mọi người đều mong ước, nhưng do trong lòng không có nguồn vui thì làm sao có thể cảm thấy vui thực
sự được ? Niềm vui đích thực chỉ đến từ nơi « Thiên Chúa là Tình yêu. Ai
yêu thương thực sự thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người
ấy ». Chỉ những ai trong lòng chứa đầy tình yêu vị tha nhân ái mới cảm
thấy bình an và vui tươi thực sự.
2) GƯƠNG SÁNG CAN ĐẢM TRUNG THỰC CỦA THÁNH GIO-AN
PHAO-LÔ II:
-Trong thời gian chuẩn bị mở Đại Năm Thánh 2000,
thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi thành phần trong Hội
thánh phải thành tâm sám hối. Vào tháng 05 năm 1995, tại nước cộng
hòa Xéc (Tchèque), ngài đã nêu gương can đảm và trung thực khi công khai đại
diện Hội thánh Công Giáo nhận lỗi như sau: “Hôm nay tôi, Giáo Hoàng của Giáo Hội Rôma, nhân danh tất cả
những người Công giáo, tôi xin lỗi về những lầm lỗi đã gây ra cho
người không Công giáo trong lịch sử sóng gió của các dân tộc ấy”.
- Thực vậy, trong lịch sử gần 2000 năm, do lỗi của
một số các chủ chăn, Hội thánh ít nhiều đã phạm phải một số lỗi lầm
cần phải trung thực nhìn nhận và quyết tâm sám hối như sau:
+ Hội thánh cũng có một phần trách nhiệm trong sự
phân rẽ nội bộ thành bốn tôn giáo Ki-tô như: Công giáo, Chính thống, Tin
lành và Anh giáo.
+ Thời kỳ trung cổ Hội thánh đã có lần buộc phải phát
động thánh chiến để giải phóng Đất Thánh đã bị người Hồi giáo xâm
chiếm trước đó. Do cuộc thánh chiến này mà đã có rất nhiều người của hai bên bị
thương vong.
+ Thời kỳ Trung cổ, Hội thánh có toà án “Qui Tà” để
xét xử và ra những bản án nặng nề như kết án hỏa thiêu một số người hành
nghề phù thủy và những người dị giáo chống lại Hội thánh.
+ Về phạm vi khoa học, Hội thánh có lần đã lập tòa án tôn
giáo kết án oan sai cho một nhà khoa học vô tội là Ga-li-lê-ô...
Qua việc công khai thừa nhận những sai sót của Hội Thánh
trong quá khứ, Đức Thánh Cha muốn cho thấy quyết tâm canh tân Hội thánh công
giáo để giúp Hội Thánh bước vào thiên niên kỷ thứ ba với một tinh thần mới theo
sát Tin Mừng của Chúa Giê-su hơn và phù hợp với giai đoạn mới của lịch sử nhân
loại hơn.
- Trong những ngày Mùa Vọng này, noi gương Đức Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì cụ thể để chuẩn bị
tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh, chờ đón Chúa Cứu Thế đến trong giờ chết mỗi
người cũng như đến chung trong ngày cùng tận của thế giới?
3) HÃY THẮP
LÊN ÁNH SÁNG TIN YÊU CHO THA NHÂN:
Một ngày kia mẹ Tê-rê-sa
Can-quýt-ta đã đi thăm một ông lão nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một
căn phòng tồi tệ, đồ đạc ngổn ngang bụi bặm. Căn phòng không cửa sổ và tối tăm
vì không một bóng đèn. Mẹ Tê-rê-sa liền bắt tay vào việc thu dọn đồ đạc. Ông
lão kia nói to: "Xin cứ để yên cho tôi". Nhưng mẹ vẫn tiếp tục làm
công việc quét dọn. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp sạch sẽ, mẹ Tê-rê-sa đã tìm
thấy một chiếc đèn dầu nằm trong một góc phòng. Chiếc đèn bám đầy bụi bặm,
chứng tỏ đã lâu ngày không có ai đụng đến. Mẹ liền lau chùi chiếc đen sạch sẽ
rồi hỏi: “Lâu nay ông đã không thắp đèn phải không ?”. Ông ta đáp: “Thắp đèn
làm chi ? Nào có ai thèm đến thăm tôi đâu ? và tôi cũng chswngr cần phải tiếp
xúc nói chuyện với ai”. Mẹ lại hỏi: “Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên nếu có các
nữ tu của tôi đến thăm ông không?”. Ông đáp: “Vâng, nếu tôi nghe có tiếng người
đến thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ đó,
mỗi ngày, hai nữ tu của mẹ Tê-rê-sa được cử đến thăm ông lão và thu dọn giúp đỡ
cho ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy như sau: “Bây giờ tự tôi đã
biết thu dọn phòng của tôi rồi. Nhưng xin chị làm ơn về nói với bà bề trên
rằng: Ngọn đèn mà bà đã thắp lên trong ngày đầu đến thăm tôi, đến nay vẫn không
ngừng cháy sáng”.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên
Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng của Giới luật yêu
thương.
4) GƯƠNG SÁNG
BÁC ÁI TỪ NHỮNG VIỆC NHỎ:
Linh mục Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:
Có gia đình kia đi nghỉ hè một thời gian dài tại bờ biển.
Ngày nọ, mấy đứa con đang nô đùa, xây những lâu đài bằng cát trên bãi biển, thì
có một bà lão xuất hiện. Tóc bà rối bời trong gió, áo quần nhàu nát rách rưới.
Bà vừa lẩm bẩm, vừa cúi nhặt những vật gì đó trên mặt cát bỏ vào trong giỏ.
Cha mẹ lũ nhỏ liền gọi chúng lại dặn hãy tránh xa mụ đàn
bà đó. Khi đi ngang qua, bà lão nghèo khổ đã mỉm cười với họ, nhưng mọi người làm
như không xem thấy bà.
Nhiều tuần lễ sau, cả gia đình mới được người biết chuyện
kể: Đã từ lâu, bà lão này đã tự nguyện đi làm công việc lượm các mảnh thủy tinh
và rác rến rơi trên bãi biển, để bọn trẻ khỏi bị đứt chân.
Bà lão chính là hiện thân của Đức Giê-su Cứu Thế mà người
ta không nhận biết, như ông Gio-an Tẩy Giả đã nói với các đầu mục Do thái từ
Giê-ru-sa-lem tới như sau: “Giữa các ngươi có một Đấng mà các ngươi không
biết” (Ga 1,26). Đây cũng là lời mời gọi chúng ta noi gương bà lão này.
5) HÀNH ĐỘNG TỐT
CÓ SỨC THUYẾT PHỤC HƠN LỜI NÓI HAY:
Một vị linh mục đã thuật lại về chuyến đi du lịch của ông
tại Trung quốc cách đây ít năm. Trong thời gian đi du lịch đó đây, ông đã gặp
và trao đổi với đôi vợ chồng già đều là bác sĩ. Họ đã học chung với nhau ở Đại
học Y khoa, quen nhau, rồi yêu nhau và quyết định cưới nhau. Bà vợ là người công
giáo, còn ông chồng không theo đạo nào. Đã nhiều lần bà vợ cố thuyết phục chồng
theo đạo Công giáo, nhưng ông không quan tâm. Có lẽ vì chưa thấy đạo công giáo có
gì tốt hơn các đạo khác.
Rồi đến thời kỳ tại Trung Quốc diễn ra những biến cố chính
trị lớn lao, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bác sĩ đã bị gọi
động viên nhập ngũ phục vụ trong quân đội. Sự xa cách đã gây ra nhiều khó khăn
cho người vợ ở nhà. Hằng ngày chị vừa phải phục vụ khám chữa bệnh tại bệnh
viện, rồi đêm về lại phải chăm sóc cho đứa con trai nhỏ dại nhờ ông bà trông
coi ban ngày. Ngoài nỗi cô đơn, chị vợ còn bị các đoàn thể trong cơ quan hối
thúc li dị chồng và bỏ đạo công giáo, để có điều kiện thăng quan tiến chức. Nhưng
chị chỉ giữ thái độ im lặng. Mỗi ngày, sau khi từ bệnh viện về nhà, hai mẹ con đều
đọc kinh tối chung trước khi nghỉ đêm, để xin Chúa giúp sớm đoàn tụ với chồng.
Vào cuối thập niên 1970, ông chồng mãn hạn phục vụ quân
đội được trở về nhà. Nhận được tin nhắn, hai mẹ con từ sáng sớm đã ra sân ga
đón đoàn tàu trở về. Nhưng hai mẹ con lại là gia đình duy nhất ra đón người
thân, vì hầu hết các phụ nữ khác do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu ngày nên
đã li dị và tái hôn. Trước tấm lòng yêu thương chung thủy của vợ, ông chồng rất
cảm động và sau đó đã tình nguyện học giáo lý để chịu phép rửa tội trong đạo công
giáo. Ông đã cảm nghiệm được giá trị của đức tin qua hành động chung thủy của bà
vợ thân yêu. Đó chính là bằng chứng hùng hồn cho thấy giá trị của đức tin công
giáo trước mặt anh em lương dân.
3. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ
làm gì cụ thể để chiếu sáng tin yêu mừng Chúa Giáng Sinh cho người nghèo khổ cô
đơn gần nhà, để làm chứng cho ánh sáng Tình Yêu của Thiên Chúa cho những người
bất hạnh trong Mùa Giáng Sinh năm nay?
4. SUY NIỆM:
1) MÙA VỌNG
LÀ THỜI GIAN CHUẨN BỊ TÂM HỒN ĐÓN MỪNG CHÚA ĐẾN:
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ nhất Mủa Vọng, Tin mừng
Mat-thêu đã ghi lại Lời Chúa mời gọi mọi người tỉnh thức và cầu nguyện: “Anh em
hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (Mt 24, 42).
Sang đến Chúa nhật thứ II, tiếng hô của ngôn sứ I-sai-a trong hoang địa ngày
xưa đã được Gio-an Tẩy Giả thực hiện qua lời rao giảng: “Hãy dọn sẵn con đường
cho Đức Chúa. Sửa lối cho thẳng để Người đi” (Mt 3,3). Hôm nay trong phụng vụ
Chúa Nhật thứ III chuyển sang màu hồng, thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu
chúng ta “Hãy vui lên, vì Chúa đã gần đến” (1 Tx 5,16). Tin Mừng Gio-an cũng giới thiệu cho chúng ta một
mẫu gương chứng nhân của ánh sáng là Gio-an Tẩy Giả: "Có một người được
Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về
sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là
người làm chứng cho sự sáng". Gio-an đã dùng lời nói, việc làm và cả cái
chết của mình để làm chứng cho ánh sáng Sự Thật là Đấng Ki-tô.
2) PHẢI CHUẨN
BỊ ĐÓN CHÚA ĐẾN BẰNG CÁCH NÀO ?
- Phải đón chờ Chúa đến trong niềm vui: Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu Thes-sa-lo-ni-ca như sau: ”Anh em
hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx
5,16). Khi Đấng Cứu thế
đến, Người không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà còn chữa lành
những căn bệnh tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong lòng mỗi chúng
ta như lời tuyên sấm của I-sai-a: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức
dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, Người đã sai tôi
đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng
mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc
4,18-19).
Trong
những ngày này, mỗi người chúng ta cần thể hiện niềm vui chờ đón Chúa đến bằng
việc năng đến nhà thờ dự lễ và tham dự các sinh hoạt đạo đức như tĩnh tâm Mùa
Vọng để ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
- Hãy vui luôn trong Chúa: Thánh
Phao-lô cũng khuyên các tín hữu như sau: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui
của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống
hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến” (Pl 4,4-5).
Trong
những ngày này, mỗi người chúng ta cũng phải năng dâng lời ca tụng tình thương
cứu độ của Chúa khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại… vì “Tất cả
đều là hồng ân”. Khi gặp phải những tai nạn trái ý, chúng ta hãy luôn ý thức rằng:
“Sau cơn mưa trời sẽ lại sáng” và “qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai”, vì « Thiên
Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành ». Do đó chúng ta đừng bao giờ thất
vọng dù gặp phải bất cứ hoàn cảnh nào, vì luôn tin có Chúa cùng đồng hành và sẽ
ban ơn nâng đỡ chúng ta vượt mọi khó khăn.
- Hãy gặp gỡ Chúa là niềm vui: Thai nhi Gio-an mới được sáu tháng
tuổi trong dạ mẹ cũng đã nhảy mừng khi gặp được thai nhi Cứu Thế Giê-su như bà
Ê-li-sa-bét đã nói với Đức Ma-ri-a: « Vì này đây, tai tôi vừa nghe
tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng » (Lc 1,44).
Đức Giê-su chính là niềm vui của Thiên Chúa. Từ cung lòng Chúa Cha, Người đến trần
gian đem tin vui cho nhân loại, giải thoát họ khỏi mọi nỗi đau khổ do tội lỗi
và sự chết gây ra. Khi Chúa giáng sinh trong hang
đá Bê-lem, các thiên thần đã hân hoan ca hát rằng : « Vinh danh Thiên
Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương » (Lc
2,14).
Nếu chúng ta có gặp thất bại cũng
đừng vội chán nản, nhưng hãy chạy đến với Chúa là niềm vui. Hãy cầu nguyện để
chia sẻ mọi nỗi lo toan cho Chúa. Người sẽ lắng nghe và ban ơn giúp chúng ta
tìm thấy niềm vui trong tâm hồn. Người sẽ biến đổi cuộc đời của chúng ta nên
tốt và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy bình an trong tâm hồn.
- Hãy chia sẻ niềm vui cho tha nhân
cách cụ thể : Trong những ngày Mùa Vọng này, chúng ta hãy đón nhận Chúa
Giê-su là nguồn vui bất tận, và đem chia sẻ niềm vui của Chúa đến
cho tha nhân như lời bài hát của nhạc sĩ Se-bas-ti-an Bach: “Lạy Chúa
Giê-su. Xin cho niềm vui trong con luôn tồn tại, để con có thể đem niềm vui ấy
cho tha nhân”.
Vậy mỗi người chúng ta sẽ làm gì để
chia sẻ niềm vui Giáng Sinh cho những người thân trong gia đình, những người nghèo
khổ bệnh tật và cô đơn gần bên? Để thắp lên ánh sáng tin yêu của Thiên Chúa cho
những ai đang bị bất hạnh để họ có được niềm vui trong Mùa Giáng Sinh sắp tới ?
J. Bas-quin cũng nói: “Sống chứng nhân không phải là chạy đuổi theo các tâm
hồn, mà là sống thế nào để các tâm hồn phải yêu mến chạy theo chúng ta”.
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa
GiÊ-su. Chúng con
đang sống trong những ngày Mùa Vọng, là thời gian chờ đón Chúa tái
lâm kiến tạo một “Trời Mới Đất Mới”. Trong những ngày này, xin cho
chúng con biết noi gương Gio-an Tẩy Giả: chuẩn bị đón Chúa đến bằng
các việc hy sinh hãm mình biểu lộ tâm tình sám hối của chúng con,
bằng những lời động viên giúp vợ chồng, con cái, bạn bè... sống tốt
lành đạo đức hơn. Nhất là xin cho chúng con trở thành ánh sáng chiếu
soi, khí cụ bình an của Chúa, luôn sống tin yêu phó thác vào Chúa
quan phòng và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ tha nhân, để nên dấu chỉ
giúp người đời nhận biết tin theo Chúa.
- LạY
CHÚA. Khi xưa Mẹ Ma-ri-a đã sống bác ái, trong tinh thần xin vâng
và phục vụ. Mẹ đã mở cửa lòng đón nhận Ngôi Lời Nhập Thể qua lời
thưa “Xin Vâng” với sứ thần. Mẹ đã đem Chúa đến thăm viếng gia đình
Gia-ca-ri-a để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho các thành viên trong gia đình
này. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa đến
với chúng con trong Đêm Giáng Sinh. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng
làm chứng cho Chúa bằng một lối sống đạo đức thực sự, thể hiện qua
thái độ vị tha, quảng đại chia sẻ và khiêm nhường phục vụ tha nhân. Nhờ
đó, người đời sẽ nhận biết tin theo Chúa để cũng được chia sẻ niềm vui
ơn cứu độ với chúng con.
X) HIỆP
CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH-HHTM