CHÚA NHẬT 7
PHỤC SINH
LỄ THĂNG THIÊN
B
Cv 1,1-11 ; Ep
1,17-23 ; Mc 16,15-20
CON ĐƯỜNG THEO
CHÚA LÊN TRỜI HÔM NAY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 16,15-20.
(15) Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ
phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16) Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ. Còn ai
không tin, thì sẽ bị kết án”. (17) Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những
ai có lòng tin: Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được
những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm
thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay lên những người
bệnh, thì những người này cũng được mạnh khỏe. (19) Nói xong, Chúa
Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông
đồ thì ra đi rao gảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su trước khi về trời đã trao cho các Tông
đồ tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, để ai tin
và chịu phép rửa thì được trở nên con Thiên Chúa và được hưởng ơn cứu
độ của Chúa Giê-su. Còn những kẻ không tin thì sẽ bị kết án là bị loại
khỏi Nước Trời. Chúa còn hứa hỗ trợ các tông đồ bằng việc ban quyền làm
phép lạ Sau đó Chúa Giê-su đã được rước lên trời. Còn các Tông đồ
thì đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi với sự trợ giúp của Người.
3. CHÚ THÍCH:
- C 15-16: +Anh em hãy đi: Lệnh truyền này chỉ được công
bố sau biến cố Phục Sinh cho thấy: mầu nhiệm Phục Sinh là nền tảng
cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. +Khắp tứ phương thiên hạ: Trong thời gian 3 năm rao giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su chỉ được sai đến cùng các con chiên lạc của nhà
Ít-ra-en. Nhưng sau khi Phục Sinh, Người lại trao sứ mạng phổ quát
“loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. +Loan báo Tin Mừng: Theo Hy ngữ, Tin Mừng (
Eu-ag-ge-li-on) là một “tin vui, tin mừng”. Có thể hiểu Tin Mừng Đức
Giê-su theo hai nghĩa: Một là “chính Tin Mừng được Đức Giê-su công bố.
Hai là “Tin Mừng về Đức Giê-su”, Đấng ban ơn cứu độ nhờ mầu nhiệm
chết và sống lại của Người. +Cho mọi loài thọ tạo: Mọi loài thọ tạo mang ý
nghĩa cánh chung, nghĩa là mọi dân mọi nước (x. Mt 28,19), Chúa sẽ
biến đổi mọi tạo vật nên Trời Mới Đất Mới vào ngày Tận Thế (x. Kh
21,1). +Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu độ: Tin là mở lòng đón nhận Đức
Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa. Chịu phép Rửa là nhận ơn tha
tội và ơn tái sinh để nên con người mới và nên dưỡng tử của Thiên
Chúa. Nhờ đó họ sẽ được sống đời đời.+ Còn ai không tin thì
sẽ bị kết án: Thực ra,
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng
để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ (x Ga 3,17). Nhưng kẻ
không tin thì đã bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh Con Một Thiên
Chúa. Họ giống như cành nho bị tách lìa khỏi thân cây là Đức Giê-su,
nên bị khô héo và sẽ bị quăng vào lửa hỏa ngục đời đời (x. Ga 15,5-6). +Còn những người không tin Đức Giê-su
nhưng không do lỗi của họ thì có được ơn cứu độ không?: Những
ai tuy không biết Đức Ki-tô, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành, thì
Chúa sẽ lo liệu cho họ có đủ phương tiện cần thiết để được rỗi linh
hồn. Chỉ những kẻ cố tình theo phe ma quỷ làm điều gian ác và không
chịu hồi tâm sám hối thì chắc chắn sẽ phải xuống hỏa ngục. Vì hỏa
ngục được lập ra để dành cho ma quỷ và những kẻ đi theo chúng (x. Mt
25,41).
- C 17-18: +Đây là những
dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: Ngay trong thời gian giảng đạo, khi sai các Tông đồ đi
thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông quyền trên các
thần ô uế để xua trừ chúng và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền
trong dân (x. Mt 10,1-5). Giờ đây trước khi về trời, Đức Giê-su lại trao
quyền làm các dấu lạ cho các ông. +Nhân danh Thầy, họ sẽ trừ
được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và
dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay
lên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe: Khi viết Tin Mừng (khoảng năm
65), Thánh Mác-cô đã nghe biết các phép lạ do các Tông đồ thực hiện.
Chẳng hạn: Vào lễ Ngũ Tuần, các ông đã được đầy ơn Thánh Thần, bắt
đầu nói các thứ tiếng khác lạ (x. Cv 2,4). Thánh Thần cũng
ngự xuống trên gia đình Co-nê-li-ô và cho họ nói các thứ tiếng lạ
(x. Cv 10,44-46). Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân nhờ
bàn tay các Tông đồ (x. Cv 5,12). Tông đồ Phê-rô đặt tay trên
bệnh nhân hoặc chỉ cần bóng của ông phớt qua đã đủ để họ được lành
bệnh, và thần ô uế cũng phải xuất ra (x. Cv 5,15-16). Còn tông đồ
Phao-lô thì chữa lành một người bị bại chân tại Lýt-ra (x. Cv
14,8-10); Tại đảo Man-ta, Phao-lô đã bị rắn độc bám vào tay và cắn
mà không hề hấn gì (x. Cv 28,1-6); Ông cũng đã cầu nguyện và đặt
tay chữa lành nhiều bệnh nhân (x. Cv 28,8-9); Ngay cả chiếc áo
ông đã mặc qua cũng có năng lực làm cho cơn bệnh biến đi và tà thần
phải xuất ra (x. Cv 19,11; 20,9-12).
- C 19-20: +Chúa Giê-su được
rước lên trời: Như Ê-li-a
thời Cựu Ước đã “lên trời trong cơn gió lốc”(2 V 2,11), thì thân xác
Chúa Giê-su cũng được rước lên trời trên các tầng mây, và từ nay
Người không còn lệ thuộc vào không gian thời gian như khi còn sống
nữa. +Và ngự bên hữu Thiên Chúa: Đức Giê-su đã được Chúa Cha tôn vinh (x Đn 7,13-14),
được vào trong vinh quang của Chúa Cha, với quyền cai trị vũ trụ (x.
Mt 28,18; Ep 1,21-22).
+ Thiên Đàng là gì? Thiên Đàng ở đâu? phải làm
gì để được lên Thiên Đàng?:
** Thiên Đàng hay Địa Đàng (Hy ngữ là Pa-ra-dei-sos) có
nghĩa là Hoa viên hay vườn đầy hoa tươi cỏ lạ (x St 2,8). Địa đàng
là một khu vườn hoan lạc nơi mà con người được sống trong
hạnh phúc. Nhưng nguyên tổ lòai người là ông Ađam và bà Evà đã liên kết
với nhau phạm tội kiêu ngạo, cãi lệnh Chúa mà ăn quả cây bị cấm, nên hai ông
bà đã bị đuổi ra khỏi Địa đàng, bị lọt vào trần gian là thung lũng đầy
nước mắt, gai góc và đau khổ (x. St 3,7.16-19). Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng
hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến khôi phục lại tình trạng nguyên thủy cho
con người (x. St 3,15). Ngài sẽ biến nơi đau khổ lưu đầy này thành
Thiên đàng hoan lạc và hạnh phúc như thuở ban đầu (x. Ed 36,35 ; Is
51,3).
+ Ra đi rao giảng khắp nơi: Các Tông đồ đã vâng lời Chúa
Giê-su, đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giê-su tại
Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng
trái đất (x. Cv 1,8). + Có Chúa cùng hoạt động với các ông...: Từ đây, Chúa Ki-tô sẽ luôn
hiện diện trong Hội thánh (x Mt 28,20). Người ban Thánh Thần cho Hội
thánh để tha tội cho người ta giống như Người đã làm (x Ga 20,21-22).
Người cũng hứa ban cho Hội thánh làm được những việc lớn hơn Người
là đi rao giảng cho các dân tộc nhờ Thánh Thần (Ga 14,12).
4. CÂU HỎI: 1) Mầu nhiệm
Phục Sinh có tầm quan trọng thế nào đối với sứ mệnh được sai đi?
Các Tông đồ được Chúa sai đến với những ai? 2) Tin Mừng Đức Giê-su có
những nghĩa nào? 3) Phải có những điều kiện nào để được hưởng ơn
cứu độ của Đức Giê-su? 4) Những ai chắc chắn sẽ bị kết án sa hỏa
ngục? Những người chưa có đức tin, nhưng theo lương tâm ăn ở ngay lành
có được hưởng ơn cứu độ không? 5) Trong thời gian giảng đạo, khi sai
môn đệ đi thực tập truyền giáo, Đức Giê-su đã ban cho các ông những
quyền nào? 6) Trước khi về trời, Đức Giê-su đã trao sứ mệnh loan Tin
Mừng cho các Tông đồ kèm theo những dấu lạ nào? 7) Lời Chúa phán về
các dấu lạ kèm theo lời rao giảng của các Tông đồ đã ứng nghiệm
thế nào thời Giáo Hội Sơ Khai? 8) Thời Cựu Ước, ngôn sứ nào được
rước lên trời? Thời Tân Ước hai nhân vật nào cũng được lên trời? Chúa
Giê-su thăng thiên khác với việc mông triệu của Đức Ma-ri-a ra sao? 9) Một
người lương dân luôn ăn ngay ở lành mà chết thì có được hưởng ơn cứu
độ không? 10) So sánh lời Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu “Hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ...”(x Mt 28,19) với Lời Chúa được ghi trong
sách Công Vụ “Hãy nên chứng nhân của Thầy...” (x Cv 1,8) giống và khác
nhau ra sao? 11) Sau khi lên trời, Chúa Giê-su còn ở với Hội thánh nữa không?
12) Từ đây, Chúa Thánh Thần được ban cho Hội thánh để làm gì?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chúa Giê-su được rước lên trời ngự bên hữu TC”
(Mc 16,19):
2. CÂU CHUYỆN:
1) THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
Ngày 5-9-1961, Liên Xô đã phóng một
phi thuyền mang theo một người lên không gian và bay được ba vòng chung quanh
trái đất. Sau đó trong một cuộc phỏng vấn, Tổng Bí thư Krouchev đã nói với ký
giả của tờ New York Time của Mỹ như sau: " Để điều tra trên trời có Thiên
đàng thật như người ta nói hay không, chúng tôi đã gửi một thám tử lên không
trung là: YOURI GARARINE. Anh ta đã đi vòng quanh quả địa cầu mà chỉ trông
thấy những bóng đen dầy đặc, không thấy Thiên đàng ở đâu cả. Sau đó chúng tôi
lại gửi một thám tử khác lên: GERMAN TITOV. Chúng tôi đã bảo anh ta:
"Hãy bay lâu hơn một chút nữa. Có lẽ Gagarine chưa thấy Thiên đàng vì
chàng chỉ mới bay có một tiếng rưỡi thôi. Vậy chuyến này anh hãy nhìn cho
kỹ". Titov đã trẩy đi, rồi trở về và anh xác nhận lời tuyên bố của
Gagarine là sự thật: "Hư vô! Chỉ có Hư vô!" Rồi sau đó Krouchev kết
luận: "Vì thế chúng tôi không tin có đời sau".
Đó là cái nhìn của một người vô tín theo
chủ nghĩa duy vật. Cái nhìn đó không phải là cái nhìn của người có đức tin như
chúng ta.
Trong kinh Tin Kính các tín hữu chúng
ta cũng tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su và cuộc sống Thiên đàng, về một Nước
Trời hằng sống như sau: “Người lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha, và Người sẽ lại
đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ
cùng”.
2) LÊN TRỜI BẰNG LỐI SỐNG YÊU THƯƠNG VÀ CHU TOÀN BỔN PHẬN:
Một tu sĩ đang sống an vui tốt lành
giữa cộng đoàn tu viện. Ngày nọ, khi ông đang rửa chén dĩa, thì một thiên thần
hiện ra và nói:
- Thiên Chúa sai ta đến để báo cho
ngươi biết là giờ ngươi lìa đời đã đến.
Tu sĩ vẫn điềm nhiên trả lời:
- Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy
đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa, tôi không muốn tỏ ra vô ơn với Thiên
Chúa, nhưng liệu giờ tôi được hưởng nhan thánh của Người có thể hoãn lại sau
khi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?
Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc bổn
phận một cách hăng say và quên hẳn việc gặp gỡ Thiên thần.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ
ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ
giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói:
- Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, liệu giờ tôi vào cõi
đời đời có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?
Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh
nhân, thì Thiên thần hiện ra. Lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ
tay chỉ vào các bệnh nhân nằm trên giường. Thiên thần biến đi không nói một lời
nào.
Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé của mình,
bỗng chốc, ông cảm thấy mình đã già nua, mệt mỏi; ông thốt lên lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con sẽ sẵn sàng
theo Ngài.
Lời cầu vừa dứt, Thiên thần Chúa lại hiện đến. Vị tu sĩ liền
thưa với thiên thần:
- Lần này, nếu Thiên thần mang tôi
đi, tôi sẵn sàng theo ngài về thiên quốc ngay.
Thiên thần liền âu yếm nhìn tu sĩ và
nói:
- Này ông thánh nhỏ ơi, sao còn mơ
ước về thiên quốc, những ngày tháng vừa qua, ông nghĩ là mình đã ở đâu vậy?
3) CHỌN TIN THEO CHÚA ĐỂ ĐƯỢC LÊN TRỜI
SAU NÀY:
Có một gia đình kia: Chồng là người
ngoại đạo không những không tin Chúa, mà ông còn luôn miệng đả kích khinh miệt
những hành vi thờ phượng Chúa của vợ. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày
nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hướng trái ngược
đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm
em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: “Bố ơi! Bác sĩ nói con chỉ còn sống
được ít ngày nữa. Vậy con xin bố dạy con phải tin theo
bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có Đức Mẹ
để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân
lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa là Cha. Có Đức Mẹ luôn
bầu cử chở che?”
Người cha rất ngạc nhiên khi nghe con nói. Ông ôm con vào
lòng và nói: “Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của bố!” Đứa bé liền nói tiếp:
“Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể gặp gỡ bố trên thiên
đàng được?”. Trước lời nói đơn sơ chân thành của đứa con thân yêu, người cha đã
không kiềm nổi xúc động. Những giọt nước mắt tuôn tràn trên mặt. Kể từ ngày đó,
ông bố đã dứt khoát chọn tin thờ Thiên Chúa.
4) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP NGON ĐÈN YÊU THƯƠNG TRONG LÒNG NGƯỜI TA:
Mẹ Têrêxa Can-quýt-ta vốn là một nữ tu
người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy những
người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ờ ngoài lề đường. Sau
khi chết xác liền bị quẳng vào đống rác như một con vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ
rơi. Biết bao gia đình sống chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người
sống đói khát không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày. Mẹ Tê-rê-sa đã lăn xả vào việc
phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô
đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ
đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và
nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng
không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn
dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau
chùi, Mẹ kêu lên: “Ô, cây đèn đẹp quá”. Ông già nói: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ
tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa”. Thấy ông đã
cởi mở, Mẹ Têrêxa liền đề nghị: “Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi
ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không?” Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các
chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn cháy sáng ấm áp
trong căn lều. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đến thăm mọi người và được mọi
người đến thăm. Cuộc đời của ông đã vui trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không
phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái
tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi
người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên.
Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim
ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy
mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người
Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên
đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh
em.
Hôm nay Hội Thánh cầu nguyện cho
công cuộc loan báo Tin Mừng và mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo.
Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng
mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ đi soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng
sáng và mọi người sẽ nhìn nhận ra nhau là anh em.
3. SUY NIỆM:
1) Lên trời là
gì? : Hôm nay lễ Chúa Giê-su
lên trời, nhưng Trời ở đâu? Trong Kinh Thánh, “Trời” là hình ảnh văn chương
quen thuộc dùng để chỉ nơi Thiên Chúa ngự. Hình ảnh “Đám mây” chỉ về sự hiện diện
của Thiên Chúa. Ví dụ: khi dân Chúa tiến bước trong sa mạc, thì có đám mây đi
theo. Khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan từ trong đám mây có tiếng
Chúa Cha tuyên phán…. Vậy chúng ta đừng hiểu cách diễn tả của Thánh Luca trong Tin
mừng theo nghĩa đen là Chúa bay vào không gian như một phi hành gia. Chúa Giê-su
lên trời có nghĩa là Người được vào trong vinh quang của Thiên Chúa, được nên
ngang hàng với Thiên Chúa và được đặt làm Chúa tể mọi loài mọi vật.
2) Đức Giê-su đã được rước lên
trời: Sau khi sống
lại, Đức Giê-su tuyên bố Người đã được ban “mọi quyền năng trên
trời dưới đất” (x. Mt 28,18), “Người là vị Thượng Tế thánh thiện,
vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao
vượt các tầng trời” (x. Dt 7,26), và đã vào chính cõi trời,
để giờ đây đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt
9,25).
Qua hình ảnh được rước lên
trời, Chúa Phục Sinh từ đây sẽ không còn hiện ra với các tông đồ,
nhưng Người sẽ hiện diện cách thiêng liêng, không lệ thuộc vào thời
gian và không gian như Người đã nói: “Thầy
sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
3) Đức
Giê-su lên trời mở ra sứ mệnh mới cho Hội Thánh: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo
Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo
được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm
phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”.
Kèm theo việc rao giảng Tin Mừng là các dấu lạ: “Có Chúa cùng hoạt động với
các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ đến các môn đệ,
Chúa Giê-su trở thành người đang sống với chúng ta và trao cho chúng ta sứ mệnh
làm chứng cho Người: “Anh em sẽ nhận được sức
mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng
nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho
đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
4) Để được lên trời với Đức Giê-su sau này, chúng ta phải làm gì?
- MỘT là tin
Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và được tái sinh bởi nước và Thánh Thần
trong phép rửa tội.
- HAI là phải ăn
năn sám hối tội lỗi, quyết tâm chừa bỏ các thói hư bằng việc thực
hành các nhân đức đối lập theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức”.
- BA là phải
sống giới răn “mến Chúa yêu người” bằng cách năng nghĩ đến tha nhân, khiêm
tốn phục vụ, quảng đại chia sẻ cơm áo cho những người bệnh tật nghèo
đói để trở nên môn đệ đích thực của
Đức Giê-su.
- BỐN là phải đi
con đường hẹp và leo dốc, từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Thiên
Chúa, sẵn sàng vác thập giá là
các tai nạn gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
- NĂM là phải chu toàn sứ mệnh tông đồ truyền
giáo, nghĩa là làm chứng cho Chúa bằng đời sống khiêm nhường yêu thương phục
vụ tha nhân từ trong gia đình ra ngoài xã hội mọi lúc và mọi nơi.
5. NGUYỆN CẦU
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng
con mừng đại lễ Thăng Thiên. Chúng con thật vui mừng và hãnh diện
tuyên xưng Chúa chính là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Chúa lên
trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mở đường về trời cho chúng con, để
dọn chỗ cho chúng con và đến ngày tận thế Chúa sẽ trở lại để đem
chúng con lên trời với Chúa. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Quê hương
chúng con ở trên trời, nơi đó chúng con sẽ gặp Đấng Cứu Chuộc là
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con”, để dù đang sống giữa thế gian, nhưng
chúng con không thuộc về trần gian. Xin cho chúng con biết dùng của
cải đời này để sắm cho mình kho báu thiêng liêng trên trời, bằng việc chia
sẻ cơm bánh cho những người đói khát, quần áo cho những kẻ rách rưới, chữa
lành các bệnh nhân đau liệt, thăm viếng an ủi những người đau khổ thể
xác cũng như tâm hồn, giúp tội nhân ăn năn sám hối trở về với Chúa...
như kinh “thương người” đã dạy.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM