CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN
Ngôn sứ ngày xưa và ngôn sứ hôm nay
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Ed 2:2-5;
2 Cr 12:7-10; Mc 6:1-6)
Sau loạt
bài giảng về Nước Thiên Chúa, Chúa Giê-su để ý đến việc đào tạo môn đệ để Người
sai họ đi rao giảng Tin Mừng cứu độ. Giống
như các ngôn sứ ngày xưa, Chúa Giê-su được Chúa Cha sai đến trần gian để thi
hành sứ mệnh và nay đến lượt các môn đệ được Chúa Giê-su sai đi để tiếp tục sứ
mệnh của Người. Điều cần thiết nhất khi
bắt đầu chương trình đào tạo là Chúa giúp các môn đệ Người hiểu rõ vai trò ngôn
sứ của họ. Ngôn sứ thời nào cũng đều có
những điểm chung trong sứ vụ và trong những khó khăn khi thi hành sứ vụ. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày khuôn mặt
ngôn sứ, từ các ngôn sứ thời Cựu Ước đến vị Ngôn Sứ Tối Cao là Đức Giê-su Ki-tô,
cũng như các ngôn sứ thời nay chia sẻ sứ mệnh của Người, đó là chúng ta, các
môn đệ Người. Vậy vị ngôn sứ Cựu Ước được
Lời Chúa hôm nay giới thiệu chính là Ê-dê-ki-en, người nói thay cho Thiên Chúa,
đã bị chính đồng bào của ông tẩy chay và tìm cách hãm hại (bài đọc 1). Cũng giống hầu hết các vị ngôn sứ trong quá
khứ, Chúa Giê-su, là chính Lời Thiên Chúa trực tiếp phán dạy, cũng không tránh
khỏi số phận bị khinh khi, thậm chí do những người dân thành Na-da-rét, nơi Người
đã lớn lên và sinh hoạt với họ đã bao năm (bài Tin Mừng). Theo chân Đức Ki-tô, thánh Phao-lô tông đồ
trên đường rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, cũng từng bị bách hại và chịu đựng
gian truân khi ngài trung thành với sứ mệnh (bài đọc 2).
1. Ê-dê-ki-en, vị ngôn sứ thời lưu đày.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en, con ông Bu-di, thuộc
hàng tư tế bị phát lưu đi Ba-by-lon ngay đợt đầu năm 597 trước Chúa giáng
sinh. Tuy ở Ba-by-lon, nhưng ông vẫn
theo dõi và giải thích những gì xảy ra tại Giê-ru-sa-lem. Sau khi Giê-ru-sa-lem thất thủ, một đám dân
lưu đày mới được đưa tới Ba-by-lon. Sứ
điệp của ông gồm nhiều lời “hạch tội” Ít-ra-en và tố cáo nhiều tầng lớp con dân
nước Giu-đa. Song song với những lời
nghiêm khắc vạch trần tội lỗi của dân Chúa, Ê-dê-ki-en còn được Chúa trao sứ mệnh
rao giảng giúp dân lưu đày hiểu biết về hiện tại của mình và niềm hy vọng vào
tương lai. Tuy nhiên nói thật mất lòng,
nhưng vì đã được Thiên Chúa cho biết trước những chống đối và khó khăn nên
Ê-dê-ki-en vẫn luôn trung thành với sứ vụ được trao phó. Điều quan trọng nhất Thiên Chúa muốn
Ê-dê-ki-en phải xác tín, đó là Người sai ông đến với con cái Ít-ra-en là “dân
phản nghịch đang nổi loạn chống lại Thiên Chúa” giống như cha ông họ ngày
xưa. Họ là “những đứa con mặt dày mày dạn,
lòng chai dạ đá”. Được sai đi như thế
khác nào như chiên đi vào giữa đàn sói dữ, cho nên Ê-dê-ki-en làm sao không nao
núng lo sợ! Tuy nhiên Chúa không muốn đe
dọa Ê-dê-ki-en, mà chỉ cho ông biết một sự thật phũ phàng để ông chuẩn bị đối
phó khi nó xảy đến. Nhưng nhất là Chúa
muốn vị ngôn sứ của Người biết rõ hai điều:
thứ nhất, lời Chúa phán với ông là “thần khí đã nhập vào ông và làm cho
chân ông đứng vững”; thứ hai là tuy được
sai đến với “nòi phản loạn”, dù họ chịu nghe lời hay không nghe lời ông, thì họ
vẫn phải biết rằng có một ngôn sứ là Ê-dê-ki-en do Chúa sai đến đang ở giữa họ. Rõ ràng là Chúa đã củng cố địa vị của ông,
ban cho ông “thần khí” là sức mạnh của Người để giúp ông đứng vững và Chúa xác
định rõ ràng chỗ đứng cũng như vai trò của ông là do Người quyết định. Bất cứ ngôn sứ nào được Thiên Chúa sai đến, đặc
biệt là Ê-dê-ki-en, đều là hình bóng báo trước một vị ngôn sứ cao cả nhất, đó
là Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng đã được tác giả thư Do-thái mô tả như sau: “Thưở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa
đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;
nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử,
Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng
muôn vật muôn loài” (Do-thái 1:1-2).
2. Chúa Giê-su, vị ngôn sứ bị khinh thường ngay
tại quê hương mình. Ngôn sứ là
người nói thay cho Thiên Chúa mà còn bị bạc đãi, huống chi Chúa Giê-su, Con
Thiên Chúa (Thánh Tử) và Lời (Ngôi Lời) Thiên Chúa trực tiếp phán dạy nhân loại,
liệu có tránh khỏi sự trớ trêu này không? Không đâu!
Dân Chúa ngày xưa đã “nổi loạn” chống lại Thiên Chúa, thì cũng thế, dân
Do-thái thời Chúa Giê-su chẳng kiêng nể gì Con Một Thiên Chúa. Tệ hơn nữa, Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người
phàm, lại bị rẻ rúng ngay tại quê hương Na-da-rét của Người. Như thế, nỗi ô nhục Người phải chịu còn lớn
hơn ngàn lần so với các ngôn sứ đến trước Người nữa. Vậy Chúa Giê-su đã bị dân thành Na-da-rét
khinh thường như thế nào? Chúng ta thử
tưởng tượng khung cảnh “Đức Giê-su trở về quê quán của Người”. Chi tiết đầu tiên chúng ta nên để ý trong
chuyến “về làng” của Chúa là “có các môn đệ đi theo”. Chắc chắn mục đích khi trở về chuyến này của
Chúa không phải là “áo gấm về làng” nên Người mới đem theo các môn đệ. Thực ra sau thời gian ngắn, danh Người đã đồn
ra khắp nơi xa gần chứ đâu cần tới dân thành Na-da-rét quý trọng. Người người khắp nơi còn ngưỡng mộ Chúa, khao
khát được nghe lời Người giảng, đến độ bỏ cả nhà cửa lẫn công ăn việc làm để đi
theo Người. Nghe nói Chúa ở đâu là người
ta lũ lượt kéo tới. Không phải chỉ đàn
ông hoặc người lớn, mà cả đàn bà lẫn trẻ con.
Ai cũng muốn được đến gần Người, nghe Người và chứng kiến những phép lạ
Người làm. Ngày xưa làm gì có phương tiện
đi lại dễ dàng mà chỉ là cuốc bộ! Vậy mà
họ vẫn không ngại xa xôi, đi bộ nhiều ngày để tìm kiếm Chúa, đói khát mệt nhọc
cũng không một lời than vãn. Chúng ta trở
lại câu hỏi: tại sao chuyến này lại có
các môn đệ đi theo? Chúng ta đã thấy
trong bài đọc 1, Thiên Chúa báo trước cho Ê-dê-ki-en biết những gian khổ ông sẽ
phải chịu. Còn bây giờ, Chúa Giê-su
không báo trước cho các môn đệ của Người, nhưng Người muốn cho họ chứng kiến tận
mắt nỗi ô nhục do quê hương Người đã đối xử với Người. Đây quả là một bài học sống động, không chút
lý thuyết, nhưng là kinh nghiệm cụ thể để các môn đệ, những ngôn sứ tương lai sẽ
được Người sai đi, có cơ hội học hỏi và tin vào Người hơn nữa. Thử thách hiện tại của Chúa Giê-su cũng sẽ là
thử thách của họ. Trước mắt họ, Chúa
Giê-su đường đường là một vị Thầy, một ngôn sứ, Con Thiên Chúa, Đấng chữa lành,
Đấng làm những điềm kỳ phép lạ, vậy mà giờ đây chẳng hơn gì “bác thợ, con bà
Ma-ri-a” và là “anh em” với đám vô danh tiểu tốt như các ông Gia-cô-bê, Giô-xết,
Giu-đa và Si-môn, những cái tên gọi quá quen thuộc, đi bất cứ đâu trong
Ít-ra-en người ta cũng gặp cũng nghe. Thiết nghĩ bài học đắt giá này sẽ làm cho các
môn đệ Chúa nhớ đời, để họ xác tín rằng tôi tớ không hơn chủ, trò không hơn thầy! Kết quả của sự khinh khi này là gì? Chúa Giê-su rút ra một bài học thực tế: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở
chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà
thôi”. Chúa đã đi tới tận cùng của sự
khinh thường, từ quê hương tới bà con thân thuộc và tột đỉnh là thân nhân trong
gia đình cũng coi Người là tên điên và muốn đến lôi Người về nhà cho khuất mắt
(Mác-cô 3:20-21)! Nhưng cuối cùng có một
điều khá thú vị, là dù không thể làm được phép lạ nào lớn lao vì họ thiếu lòng
tin, nhưng Người vẫn “đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ”. Như vậy là Chúa Giê-su đã không lấy oán báo
oán, vẫn đối xử tốt với những ai sẵn lòng chấp nhận Người. Người chỉ “lấy làm lạ” tại sao họ không tin
Người mà thôi. Cuối cùng, Người âm thầm
đi nơi khác để tiếp tục sứ vụ, không một lời than trách hay giận dữ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Ngôn sứ
không chỉ là cái nghiệp, mà còn là một sứ mệnh.
Khi được rửa tội là chúng ta tham dự vào chức tư tế của Chúa Giê-su là
vua, là ngôn sứ và là tư tế. Công Đồng
Vatican đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta về vinh dự này. Đặc biệt bài đọc 2 trong Phụng vụ Lời Chúa
hôm nay nêu lên cho chúng ta một tấm gương sáng ngời của thánh Phao-lô, tông đồ
dân ngoại. Cuộc đời rao giảng của ngài đầy
gian nan thử thách và những bạc đãi ngài phải gánh chịu. Đau khổ thể xác lẫn tinh thần, chống đối và
bách hại ngay từ những đồng bào Do-thái của ngài, nguy hiểm trên đất, trên biển,
bị đánh đập nhiều lần suýt chết (xem 2 Cô-rin-tô 11:22-33). Nhưng ngài vẫn kiên vững vì Chúa Ki-tô là sức
mạnh của ngài. Ngài phải đối phó với
gian truân từ bên ngoài. Nhưng gian
truân trong tâm hồn còn nguy hiểm hơn nữa, đó là tính tự cao tự đại giống như
cái “dằm” đâm vào da thịt ngài, hoặc như “thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt
ngài”. Bài học thánh tông đồ Phao-lô dạy
chúng ta khi nhìn lại những gian nan của đời ngôn sứ là: 1) Bài học khiêm nhường: Ơn Chúa luôn đủ cho chúng ta, để sức mạnh của
Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của ta. 2) Vui
mừng và tự hào vì những yếu đuối, sỉ nhục, bách hại vì Đức Ki-tô. 3) Xác
tín rằng “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”.
Quả thực chúng ta là những ngôn sứ hôm nay vậy!
Lm. Đa-minh Trần
đình Nhi