CHÚA NHẬT 22 TN B
Dnl
4,1-2.6-8; Gc 1,17-18.21b-22.37; Mc 7,1-8.14-15.21-23
THẾ NÀO LÀ NGƯỜI ĐẠO ĐỨC THỰC SỰ?
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 7,1-8.14-15.21-23
(1) Có những người Pha-ri-sêu và
một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những người từ Giê-ru-sa-lem
đến. (2) Họ thấy một vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô
uế, nghĩa là chưa rửa. (3) Thật vậy, người Pha-ri-sêu cũng như mọi
người Do thái đều nắm giữ truyền thống tiền nhân: Họ không ăn gì, khi
chưa rửa tay cẩn thận; (4) thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy
nước đã rồi mới ăn. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa
chén bát, bình lọ và các đồ đồng. (5) Vậy, người Pha-ri-sêu và
kinh sư hỏi Đức Giê-su: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống
của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (6) Người trả lời họ:
“Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những
kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
(7) Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng
dạy chỉ là giới luật phàm nhân. (8) Các ông gạt bỏ điều răn
của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”… (14) Sau đó,
Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói
đây và hiểu cho rõ: (15) Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con
người lại có thể làm cho con người ra ô uế được. Nhưng chính cái từ
con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế… (21) Vì từ bên
trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp,
giết người, (22) ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng,
ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. (23) Tất cả những điều xấu
xa đó, đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế”.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tranh luận
với các người Pha-ri-sêu và kinh sư, về việc “thanh sạch” và “nhơ uế”
theo Lề Luật. Đức Giê-su đã dùng lời ngôn sứ I-sai-a để phê phán thứ
tôn giáo hình thức vụ luật của các người Pha-ri-sêu và kinh sư. Họ
lầm lạc khi bỏ thi hành giới răn Thiên Chúa để tuân giữ cặn kẽ tập
tục của loài người. Theo Người, lòng đạo đích thực không dựa trên các
việc làm hình thức theo Luật, nhưng ở tại tâm tình mến Chúa khi làm
các việc ấy.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Những người Pha-ri-sêu:
Pha-ri-sêu hay
Biệt phái là “Những
kẻ sống tách biệt”. Thành viên trong nhóm phần đông là thường dân
thuộc giai cấp trung lưu. Tuy nhiên cũng có một số tư tế, Lê-vi và kinh
sư. Thời Đức Giê-su, nhóm này được dân chúng kính trọng vì có đời
sống đạo đức gương mẫu. Họ thường thành lập những cộng đoàn nhỏ,
chuyên cần suy niệm Kinh Thánh và tuân giữ cặn kẽ mọi điều Luật Mô-sê dạy. Họ tin kẻ chết sống lại, có thiên sứ
và quỷ thần, trái với người phái Xa-đốc (x. Cv 23,7-8). + và
kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ là những nhà chuyên
môn về Thánh kinh vì nghiên cứu Thánh kinh kỹ lưỡng và lâu dài. Số ít trong
nhóm kinh sư là tư tế, nhưng phần lớn là thường dân ủng hộ lập trường của nhóm Pha-ri-sêu.
Họ có uy tín và ảnh hưởng lớn trong dân. Các kinh sư là người giải thích và áp
dụng Luật Mô-sê vào đời sống của dân chúng. Các kinh sư cùng với thượng tế
và kỳ mục là ba thành phần trong Thượng hội đồng Do thái tại Giê-ru-sa-lem
(x. Cv 23,6). + Về quan hệ giữa Đức Giê-su với các người Pha-ri-sêu
và kinh sư: Nói chung Tin mừng phê phán mạnh
mẽ các người Biệt phái và kinh sư: Gio-an Tẩy giả gọi họ là “nòi
rắn độc”, do thái độ cố chấp không chịu hồi tâm sám hối để sinh hoa
trái của họ (x. Mt 3,7-10). Đức Giê-su đòi môn đệ phải công chính hơn
các kinh sư và người Pha-ri-sêu (x. Mt 5,20). Người đã kiện toàn Luật Mô-sê
và sửa lại các lời giải thích hẹp hòi vụ Luật của họ về sự giận
ghét tha nhân (x. Mt 5,21-26), về tội ngoại tình (x. Mt 5,27-30) về việc
ly hôn (x. Mt 5,31-32), về sự thề thốt ( Mt 5,33-37), về sự trả thù (x.
Mt 5,38-40) và cách đối xử với kẻ thù (x. Mt 5,43-48). Đức Giê-su cũng
quở trách họ về nhiều tật xấu như: tự mãn về công đức của mình (x.
Lc 18,9-14), khinh thường tha nhân (x. Mt 9,10-13), khinh “dân đen” không
biết Luật (x. Ga 7,49), nói mà không làm (x. Mt 23,2-3), ham mê danh vọng
(x. Mt 23,6-7), dẫn đường đui mù (x. Mt 23,16-22), coi trọng điều tùy phụ
mà bỏ qua điều chính yếu (x. Mt 23,23-26), đạo đức giả hình (x. Mt
23,27-28). Về phần các kinh sư cũng chống lại Đức Giê-su: Họ nói Người
bị quỷ ám (x. Mc 3,22). Họ liên kết với nhóm Hê-rô-đê tìm cách hãm hại
Đức Giê-su (x. Mc 3,6). Sau phép lạ cho La-da-rô sống lại, các người Pha-ri-sêu
cùng với Thượng Hội Đồng Do thái đã quyết định giết Đức Giê-su (x. Ga
11,53). Tuy nhiên, trong số các người Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng Do
thái cũng có ông Ni-cô-đê-mô đã lên tiếng bênh vực Đức Giê-su (x. Ga
7,50-52) và ông Ga-ma-li-ên đã bào chữa cho các Tông đồ (x. Cv 5,34-39).
Thời Giáo Hội Sơ Khai, cũng có một người Pha-ri-sêu tên là Sa-un, quê
thành Tác-xô, đã cải đạo và trở thành môn đệ Đức Giê-su là thánh Phao-lô
(x. Cv 22,1-21). + Họ từ Giê-ru-sa-lem mà đến: Nghe
biết về các hoạt động của Đức Giê-su ở Ga-li-lê, các người có trách
nhiệm về tôn giáo ở thủ đô Giê-ru-sa-lem đã phái người đi điều tra
thực hư. + Dùng bữa mà tay còn ô uế: Các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem
coi việc dùng bữa mà không rửa tay
trước là làm cho
người mình ra ô uế theo Luật. Việc rửa tay
ở đây không nhằm giữ vệ sinh, mà để thanh tẩy tâm hồn theo lễ nghi của
đạo Do thái.
- C 3-4: + Người Do thái: Ở đây chỉ về mọi người dân Do
thái. Nhưng ở nhiều chỗ khác, nhất là trong Tin Mừng Gio-an, “Người Do
Thái” ám chỉ những kẻ thù ghét chống đối Đức Giê-su (x. Ga 2,18;
5,18; 6,41; l 8,22.48; 9,18). + Rửa tay: Luật Mô-sê đề ra
nhiều điều khoản buộc phải thanh tẩy bằng nước như: Khi chuẩn bị
lãnh chức vụ (x. Xh 29,4), trong lễ Xá Tội (x. Lv 16,4.24), khi lỡ tay
chạm đến xác chết (x. Lv 11,40; 17,15), khi thanh tẩy khỏi ô uế bởi bệnh
phong cùi (x. Lv 14,8), thanh tẩy khỏi ô uế dục tình (x. Lv 15,1-32). Về
sau tập tục còn quy định lễ nghi thanh tẩy cách tỉ mỉ hơn như: Phải
lấy nước ở trong bình bằng đồng hay bình sành.... Phải rửa từ khuỷu
tay xuống.... Phải rửa hai lần: Lần trước để làm sạch tay bẩn, lần
sau để làm sạch nước bẩn còn dính trên tay...
- C 5-8: + Sao các môn đệ của ông không theo
truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế dùng bữa?: Mọi
người Do Thái đều giữ các tập tục tẩy rửa, nhưng người Do Thái miền
Giu-đê vì gần Giê-ru-sa-lem nên tuân giữ khỏan luật này chặt chẽ hơn
miền Ga-li-lê, vì người miền Ga-li-lê thường xuyên tiếp xúc với dân
ngoại và vì đất đai khô cằn ít nước hơn. Từ đó ta hiểu lý do tại sao
các môn đệ của Đức Giê-su vốn xuất thân từ miền Ga-li-lê, đã không giữ
tập tục rửa tay trước khi dùng bữa. + Những kẻ đạo đức giả: Đức
Giê-su gọi các người Pha-ri-sêu và kinh sư từ Giê-ru-sa-lem kia là những
kẻ đạo đức giả, nghĩa là chỉ lo làm các việc đạo đức hình thức bề
ngoài, mà thiếu tâm tình mến Chúa bề trong. + “Dân này tôn kính
Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ
phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới
luật phàm nhân”: Những điều ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm Lời Đức
Chúa trách dân Do Thái thời xưa, đã được Đức Giê-su áp dụng cho các
người Pha-ri-sêu và kinh sư Do Thái hôm nay khi họ tiếp tục coi trọng các
truyền thống của loài người hơn việc tuân giữ giới răn của Thiên Chúa.
- C 14-15: + Không có cái gì từ
bên ngoài vào trong con người....: Luật Mô-sê (Lv 11,1-30) qui định
một số loài vật thanh sạch và ô uế như sau: Loài vật thanh sạch mà người Do thái được
ăn là: Mọi thú vật có móng chân chẻ làm hai và nhai lại, các vật
sống dưới nước có vây có vảy. Loài
vật ô uế không được ăn và không được đụng đến
xác chết của chúng là: Lạc đà, ngân thử, thỏ rừng, heo; Tất cả các
loài sống dưới nước mà không có vây, không có vẩy; Một số loài chim
như đại bàng, diều hâu, ó biển... Chuột, thằn lằn, tắc kè...+
Về vấn đề đồ ăn thanh sạch và ô uế: Đức Giê-su có một quan
điểm vừa khác biệt với Luật Mô-sê vừa kiện toàn Luật này khi tuyên
bố: Mọi đồ ăn tự nó là sạch (x. Mc 7,18). Cái có thể bị dơ, phát ra
điều dơ, làm cho người ta ra dơ, chính là “lòng” người, vì: “Lòng đầy
thì miệng mới nói ra” (x. Lc 6,45).
- C 21-23: + Từ bên trong, từ lòng người, phát
xuất những ý định xấu...: Đức Giê-su giải thích thêm về Luật
cấm: Đó là những người có lòng dạ hư hỏng, tư tưởng xấu xa, tâm tình
gian ác, ý định bất chính.... + Tất cả những điều xấu xa đó,
đều từ trong xuất ra: cái làm ô uế con người, phát xuất từ trong tâm hồn,từ
tư tưởng xấu mà
ra, chứ không phải do ăn các thứ thịt bị
Luật Mô-sê coi là ô uế.
4. CÂU HỎI:
1) Bạn biết gì về các người Pha-ri-sêu
và kinh sư Do thái thời Đức Giê-su?
2) Trong thời gian giảng đạo,
quan hệ giữa Đức Giê-su với các Biệt phái và kinh sư thế nào?
3) Các Biệt phái và kinh sư trong
Tin Mừng hôm nay từ đâu mà đến với Đức Giê-su và họ đã chất vấn Người về
vấn đề gì?
4) Luật Mô-sê buộc người Do thái
phải thanh tẩy bằng nước trong những trường hợp nào? Về sau, các kinh sư
còn giải thích thêm về khoản luật này ra sao?
5) Tại sao môn đệ Đức Giê-su lại
không giữ tập tục rửa tay trước khi dùng bữa?
6) Tại sao Đức Giê-su gọi các
Biệt phái và kinh sư là bọn đạo đức giả?
7) Đức Giê-su đã trích dẫn lời
nào của ngôn sứ I-sai-a trách dân Do thái?
8) Theo Luật Mô-sê thì đồ ăn nào
được coi là sạch và đồ ăn nào bị coi là nhơ uế?
9) Quan điểm của Đức Giê-su về
sự sạch hay nhơ uế của đồ ăn ra sao? Cái thực sự làm cho tâm hồn người
ta ra nhơ uế là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Các ông
gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người
phàm” (Mc 7,8):
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG MẾN THỰC
SỰ BIỂU LỘ QUA HÀNH ĐỘNG YÊU THƯƠNG:
Một nhà triệu phú kia trước khi chết
đã viết di chúc để lại toàn bộ gia tài lớn lao cho đứa con do đã đi du học nước ngoài từ nhỏ, nên không ai trong dòng
họ còn nhớ được khuôn mặt của anh này. Sau khi tin tức về cái chết của nhà
triệu phú được đăng trên báo thì có ba chàng thanh niên đến tự nhận là con trai
duy nhất của nhà triệu phú, để yêu cầu được
lãnh phần sản
nghiệp. Sau khi suy nghĩ, viên quan tòa đã cho phóng lớn bức hình chụp chân
dung của nhà triệu phú, rồi trao ba khẩu súng cho ba chàng thanh niên kia và
bảo: Ai trong ba người bắn trúng mắt của nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần
gia nghiệp của ông để lại. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng
thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn đều bắn gần trúng mắt của bức
hình. Đến phiên anh chàng thứ ba cầm súng với vẻ mặt u buồn. Anh ta im lặng suy
nghĩ và cuối cùng nói: “Tôi chịu thua vì tôi không thể cầm súng nhắm bắn vào mắt của ba tôi”. Viên quan toà liền tuyên bố: “Chính anh thứ ba mới thực sự
là con trai duy nhất của nhà triệu phú, vì suy nghĩ và hành động của anh chứng
tỏ lòng hiếu thảo của một đứa con đích thực.”
Cũng vậy, lòng mến Chúa đích thực
phải biểu lộ qua việc yêu người thân cận như yêu bản thân mình, như Chúa Giê-su
đã yêu thương chúng ta và mời gọi chúng ta học sống theo Người. Chính lòng mến
Chúa bên trong được thể hiện qua hành động bác ái cụ thể bên ngoài mới là bằng
chứng đích cực của một con người đạo đức thực sự.
2) TÌNH THƯƠNG GIÚP PHÂN BIỆT MẸ THẬT CỦA ĐỨA CON?
Trong nhà hộ sinh có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con
trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ đè chết con mình, bà bèn đánh tráo con
chết lấy lấy đứa con còn sống của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã
chết nằm bên mình không phải là con đẻ của mình. Thế là hai bà cãi lộn nhau.
Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền phân đôi đứa nhỏ còn sống
để chia cho mỗi bà một nửa cho công bằng. Bà đã đánh tráo con sẵn sàng chấp
nhận, đang khi bà kia xin nhường đứa con để nó khỏi phải chết. Thế là nhà vua
đã phân biệt được ai là mẹ ruột của đứa con nhờ tình thương của bà dành cho con
và đã trao đứa con còn sống cho bà.
3) CẦN TRÁNH GIỮ ĐẠO HÌNH THỨC VỤ LUẬT:
BÁC-CƠ-LÂY (Barclay) kể một câu truyện khác như sau:
Có một người Hồi Giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để giành quyền
kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và
nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút dao chém một nhát khiến
người kia bị thương và sau đó bỏ chạy. Người Hồi Giáo đã
đánh lén kia tiếp tục truy đuổi, quyết tâm tiêu diệt tình địch cho bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì nghe
thấy một hồi chuông nhà thờ Hồi giáo gần đó báo giờ kinh ban chiều, hắn ta
lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo
bên mình, quỳ hướng mặt về thủ đô Méc-ca đọc bài kinh chiều thật mau,
rồi sau đó lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi kẻ thù!!!
4) TÊN CƯỚP ĂN CHAY:
Một hôm, Cha MƠ-RÂY (Murray) đang âm thầm đi trên một
phố vắng vào lúc đêm khuya để mang Mình Chúa cho một bệnh nhân sắp
chết. Khi đi tới một góc phố vắng, bỗng một tên cướp từ chỗ núp nhảy xồ ra chĩa súng về phía cha ra lệnh: “Đứng
lại! Mau nộp tiền ra đây, nếu không tao bắn nát óc!“ Cha Mơ-rây sợ hãi
vội vàng mở nút chiếc áo khoác đang mặc và lấy ra một chiếc ví.
Tên cướp trông thấy chiếc áo đen giáo sĩ cha mặc bên trong chiếc áo
khóac, trên cổ có đeo “côn” màu trắng, thì hắn biết là linh mục. Hắn
lập tức dịu dọng và ấp úng nói: “Thưa cha, con rất tiếc vì con không
biết là cha. Con thành thật xin lỗi cha. Xin cha vui lòng cất tiền đi”.
Bây giờ cha Mơ-rây mới hòan hồn trở lại. Ngài móc trong túi ra một gói
thuốc lá và mời hắn một điếu ! Nhưng thật bất ngờ, tên cướp xua tay từ chối với lời giải thích như sau: “Xin cám ơn
cha, con đã quyết tâm chừa bỏ thói quen hút thuốc lá trong Mùa Chay này
rồi !!!”.
5) THÁI ĐỘ CUỒNG TÍN CỦA VỊ RÁP-BI DO THÁI:
Có một rap-bi Do
Thái tên là A-GI-BA, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với
lề luật và truyền thống tổ tiên để lại. Hằng ngày các tù nhân trong trại giam đều
được lính gác cho ăn uống đầy đủ nên khoẻ mạnh. Nhưng riêng sức khoẻ ông ráp-bi
là bị suy giảm nghiêm trọng. Sau khi theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra
nguyên nhân khiến ông ráp-bi suy giảm sức khoẻ: Thay vì uống nước được cấp
phát, ông lại dùng nước đó để rửa tay trước khi ăn theo tập tục Do thái, khiến
cơ thể thiếu nước trầm trọng. Viên ráp-bi Do Thái này đã cuồng tín, quyết giữ lề
luật bằng bất cứ giá nào.
6) NGUYÊN NHÂN KHÁC
BIỆT GIỮA CÁI NHÌN CỦA ÔNG VUA VÀ VỊ TU SĨ:
Cha ANTHONY DE MELLO, một tu sỹ dòng Tên đã viết một câu
chuyện khá ý nghĩa.
Một ông vua nọ
luôn chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ biết nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc
ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của vua lúc nào cũng đỏ gay và
sặc mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu
sỹ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng
lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ.
Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì
một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ
vẻ khó chịu chút nào.
Một lát sau,
ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp: “Thần xin cám ơn đức vua,
còn thảo dân thì thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh
ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi đã không buồn cũng chẳng giận, lại còn
khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh là sao ?. Vị tu sỹ điềm nhiên trả lời:
“Tâu đức vua, một người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn
thấy ai cũng thấy giống như con heo. Ngược lại, một người có tâm hồn và trái
tim của một vị thánh, sẽ nhìn thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu
sỹ lặng lẽ bỏ đi, còn nhà vua thì đứng chết lặng.
3. THẢO LUẬN:
1) Phải chăng các tín hữu chúng ta nên bỏ các việc đạo đức hình thức bề ngoài như: làm dấu Thánh giá, dự lễ, đi rước,
ngắm nguyện, ăn chay, kiêng thịt, bố thí.... để chỉ cần “giữ đạo tại tâm”, khoanh tay không làm gì là đủ? 2) Tuần này bạn sẽ làm gì
để chứng tỏ mình có lòng mến Chúa
thực sự?
4. SUY NIỆM:
1) Lòng đạo đức
thực sự không hệ tại ở việc đọc kinh dài dòng:
Người Hồi Giáo trong câu chuyện trên đã tuân giữ
luật đọc kinh 5 lần mỗi ngày của đạo Hồi, nhưng lại không ngần ngại phạm
tội ác to lớn là giết
chết kẻ thù. Rồi tên
cướp công giáo trong câu chuyện thứ hai đã quyết tâm bỏ thói quen hút thuốc lá trong Mùa Chay để tỏ lòng sám hối tội lỗi, nhưng lại đi trấn lột tài sản
của kẻ khác. Rồi các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái tuy giữ nghiêm
ngặt tập tục thanh tẩy bàn tay bằng nước trước khi dùng bữa,
nhưng lại coi thường điều răn quan trọng của Thiên Chúa là “thảo kính cha
mẹ”, khi họ cho phép con cái lấy của cải
lẽ ra phải dùng để nuôi dưỡng cha mẹ già yếu,
dâng hiến của cải
đó biến thành “Cô-ban”, nghĩa là “Của Thánh hiến dâng cho Thiên
Chúa”. Rồi họ
cho phép đứa con kia không cần
phải hiếu thảo phụng dưỡng cha
mẹ già yếu nữa! Cũng vậy, ngày nay có những người chỉ chú trọng thực
hiện một số việc đạo đức theo luật như đọc kinh, dự lễ Chúa Nhật, ăn
chay kiêng thịt, bố thí... mà không chú trọng việc thanh tẩy tâm hồn, không giữ luật công bình bác ái
trong cách ứng xử với tha nhân. Giữ đạo như thế chỉ là cách giữ đạo
giả dối, mang tính hình thức bề ngoài mà thôi.
2) Về hai lối sống đạo:
Truyện thiền kể có hai nhà sư
xuống núi. Dọc đường họ gặp một thiếu nữ đang đứng bên một suối nước chảy xiết.
Thiếu nữ muốn đi qua suối mà không dám bước xuống suối. Thấy vậy, một trong hai
nhà sư liền bế thiếu nữ trên tay và đã vượt qua dòng suối. Trở về gần đến chùa,
nhà sư kia mới lên tiếng trách bạn: “Sao anh lại dám vi phạn sắc giới khi bế
một thiếu nữ đi qua suối như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên suối
nước rồi, còn anh sao lại mang cô ta về đến tận chùa ?”.
Câu chuyện trên minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối
sống đạo theo hình thức lề luật và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình
thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn lại luôn vấn vương. Thế mà ông
vẫn cho mình là đã giữ trọn luật giới sắc. Ông đã trách bạn đã vi phạm giới luật
tu hành, đang khi ông chỉ biết giữ luật hình thức bề ngoài, mà không giữ luật
nội tâm.
3) Lòng mến
thực sự phải từ trái tim:
Lệnh truyền của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en:
"Ta sẽ thanh tẩy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới"
(Ed 36,25tt). Đổi mới trái tim là đổi mới tất cả. Lời Chúa hôm nay là một lời
nhắc nhở mỗi tín hữu chúng ta: Truyền thống, luật lệ và nghi thức cử hành tại
nhà thờ đều là những việc cần làm, nhưng không được quên điều căn bản của lề luật
là sống tình mến Chúa yêu người. Tôn kính Thiên Chúa qua việc phụng vụ tại nhà
thờ là điều cần làm, nhưng điều quan trọng hơn là phải kèm theo thực thi tình
người, từ trong gia đình đến khu xóm và ngoài
xã hội... Vì như lời Chúa dạy: “Từ lòng người, phát xuất những ý định
xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo
trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Người
tín hữu chúng ta cần phân biệt trong các giới răn đâu là chính đâu là phụ. Cần
ưu tiên thực hành điều chính trước, rồi đương nhiên sẽ thực hiện được các điều tùy phụ
theo sau.
4) Muốn có lòng
mến thực sự cần xin ơn Chúa:
Nguyên việc tuân giữ các việc đạo đức như dự lễ đọc
kinh, ăn chay kiêng thịt, làm việc bác ái... cũng chưa chứng tỏ một lòng đạo đức thực sự, vì người ta có thể làm các
việc đó để khoe khoang công đức để được người đời ca tụng... hơn
là làm vì lòng mến Chúa, như ngôn sứ I-sai-a
đã tuyên sấm lời Chúa, quở trách dân Ít-ra-en: “Dân này tôn
kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì ở xa Ta” (Mc 7,6; Is
29,13).
Để chứng tỏ lòng đạo đức thực sự, chúng ta phải
cầu nguyện kết hiệp với Chúa Giê-su, như thánh Phao-lô đã dạy: “Tình yêu
Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14).- “Từ nay tôi sống, nhưng không
còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mỗi ngày
chúng ta nên chu toàn các việc bổn phận như đi học, lao động làm việc để phục vụ tha nhân… kèm theo lời
nguyện tắt như: “Lạy Chúa Giê-su. Con làm việc này để biểu lộ lòng con
yêu mến Chúa, và cầu cho một người lương quen biết được sớm nhận biết tin yêu Chúa”.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin biến đổi trái tim con nên giống
trái tim Chúa. Ước gì con nhìn mọi sự và mọi người với một cái nhìn bao
dung đầy tình thương xót noi gương Chúa xưa. Xin ban Thánh Thần Tình Yêu đốt
nóng lòng con. Xin giúp con siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi
ngày cách sốt sắng, để kín múc được sức sống ân sủng từ nguồn mạch
yêu thương vô tận là Thánh Tâm Chúa, để con gieo rắc tình thương của Chúa
đến cho mọi người, an ủi những người sầu khổ, chia sẻ cơm bánh cho kẻ khó
nghèo, phục vụ những người bệnh tật và bị bỏ rơi… hầu con được trở nên môn đệ
thực sự của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI
CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM