CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN
Lối sống Ki-tô hữu: cho đi hết sẽ nhận được nhiều gấp
bội
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (1 V 17:10-16; Dt 9:24-28;
Mc 12:38-44)
Chỉ còn
ba tuần nữa là hết năm Phụng vụ. Chúa Nhật
tới, các bài đọc hướng về đề tài ngày tận thế và Chúa Nhật tiếp theo là lễ Chúa
Ki-tô Vua vũ trụ, kết thúc năm Phụng vụ.
Chuẩn bị cho ngày tận thế của vũ trụ và nhất là ngày tận thế của mỗi người
Ki-tô hữu, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta về một lối sống dựa theo khuôn mẫu của
Chúa Giê-su, để chúng ta sống đúng ý nghĩa cuộc đời cho đến khi Chúa lại đến với
chúng ta vào giờ sau hết. Đó là cuộc sống
biết cho đi hơn là chỉ biết lãnh nhận.
Bài đọc 1 kể lại câu chuyện bà góa thành Xa-rép-ta đã vui lòng chia sẻ
cho ngôn sứ Ê-li-a tất cả sự sống còn của mẹ con bà giữa nạn đói đang hoành
hành. Đáp lại, ngôn sứ đã can thiệp xin
Chúa làm cho hũ bột và vò dầu của bà không vơi không cạn, cho gia đình bà và
ngôn sứ đủ ăn lâu ngày. Bài Tin Mừng cống
hiến chúng ta câu chuyện một bà góa thời Chúa Giê-su. Bà đã bỏ vào thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ
chỉ có hai đồng tiền kẽm, nhưng lại được Chúa Giê-su khen ngợi vì “bà đã bỏ vào
đó tất cả những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”. Tuy nhiên hai bài đọc trên chỉ là để giúp
chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Ki-tô, “Đấng đã tự hiến chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi
muôn người” (bài đọc 2).
1. Bà góa Xa-rép-ta, gương mẫu xả thân cứu giúp
Ê-li-a, người của Thiên Chúa. Thật
là tuyệt vời khi chúng ta có hai bài đọc với hai câu chuyện về hai bà góa: một bà tại Xa-rép-ta thời ngôn sứ Ê-li-a và một
bà tại Giê-ru-sa-lem thời Chúa Giê-su.
Bà góa thành Xa-rép-ta là ai? Để
hiểu rõ hơn về bà góa này, chúng ta phải hiểu một chút về ngôn sứ Ê-li-a. Trong triều đại vua A-kháp ở Ít-ra-en, do ảnh
hưởng của hoàng hậu I-de-ven, dân Ít-ra-en đã buông theo những hình thức cúng
bái thần Ba-an và Át-tô-rét mà bất trung với Thiên Chúa. Các vị ngôn sứ của Thiên Chúa bị ám sát. Bản thân Ê-li-a cũng phải chạy trốn và ẩn
mình tại thung lũng Cơ-rít phía đông sông Gio-đan. Hằng ngày, Thiên Chúa cho quạ đem bánh đến cho
ông. Sau một thời gian, suối cạn khô nên
Thiên Chúa truyền cho ông tới Xa-rép-ta thuộc Xi-đôn. Tại đây, ông gặp một bà góa, người đã được
Thiên Chúa sắp đặt để nuôi ông. Ê-li-a gặp
bà đang kiếm củi tại cổng thành. Cuộc gặp
gỡ không kém phần lý thú. Trước hết ông
làm quen bằng cách xin bà cho nước uống.
Trong Tân Ước, chúng ta cũng gặp cảnh tương tự: Chúa Giê-su xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho
chút nước uống! Văn hóa Việt Nam thì miếng
trầu là đầu câu chuyện, còn văn hóa Do-thái thì miếng nước mở đầu cho câu chuyện. Sau màn “làm quen”, ông Ê-li-a bắt đầu thử
lòng tin của bà: “Bà làm ơn lấy cho tôi
miếng bánh nữa!” Bà thành thật kể lể sự
tình rằng quả thực bà chỉ còn đúng một nắm bột và chút dầu. Đó là tất cả tài sản của bà lúc này. Chỉ còn thiếu ít củi để nướng bánh nên bà
đang đi lượm. Bà không khỏi chua chát
nghĩ đến cái chết sắp đến sau khi bà và con trai bà ăn miếng bánh cuối cùng. Nghe bà nói, ông Ê-li-a gợi lên đức tin vào
Thiên Chúa. Ông bảo bà đừng sợ, hãy tin
vào Thiên Chúa, cứ về làm bánh, nhưng trước hết hãy làm cho ông một chiếc bánh
nhỏ rồi sau hãy làm cho bà và con bà. Chỉ
còn một nắm bột, làm cái bánh dù là nhỏ cũng chưa chắc đủ, lấy đâu mà làm cho
bà và con bà! Nhưng bà góa Xa-rép-ta lả
một phụ nữ có lòng tin. Bà đã làm theo lời
vị ngôn sứ và lòng tin của bà vào Thiên Chúa đã khiến Người làm phép lạ cho hũ
bột và vò dầu của bà lúc nào cũng đầy, để nuôi sống mẹ con bà và cả ông Ê-li-a,
người của Thiên Chúa, suốt thời gian nạn đói hoành hành.
Điều quan
trọng trong câu chuyện bà góa thành Xa-rép-ta là sống đức tin vào Thiên Chúa
qua hành động. Vì tin vào Thiên Chúa nên
bà sẵn sàng đánh đổi cả mạng sống của bà và con bà để “cứu” mạng sống của
Ê-li-a. Khi ông Ê-li-a xin bánh, bà đã
thề với ông rằng có Chúa làm chứng, bà nói thật về hoàn cảnh bi đát của
bà. Rồi sau khi ông Ê-li-a bảo bà rằng
Thiên Chúa sẽ cho hũ bột và vò dầu luôn đầy tràn thì bà tin vào lời Thiên Chúa
hứa qua ông Ê-li-a và làm theo lời ông dạy.
Hành vi bà đi làm bánh cho ông Ê-li-a đã biểu lộ lòng tin của bà vào
Thiên Chúa. Để sống đức tin, bà đã đem
cho đi hết những gì còn lại là nắm bột và chút dầu sau cùng. Tuy nhiên Thiên Chúa đã ân thưởng đức tin của
bà, cho mẹ con bà và ngôn sứ Ê-li-a là những người đầy lòng tin có bánh ăn “cho
đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”.
2. Bà góa với hai đồng tiền kẽm dâng cúng cho Đền
Thờ tại Giê-ru-sa-lem. Câu chuyện
này có những điểm tương đồng với câu chuyện bà góa thành Xa-rép-ta. Trước hết, cả hai bà góa này đều cho đi hết
những gì mình có. Tất cả những gì bà góa
thành Xa-rép-ta có chỉ là nắm bột và chút dầu cuối cùng, còn bà góa thành
Giê-ru-sa-lem thì túng thiếu, gia tài của bà gồm hai đồng tiền kẽm là “tất cả
những gì bà có, tất cả những gì để nuôi thân”. Trong khi bà góa Xa-rép-ta thành thực và khiêm
tốn đối với ngôn sứ Ê-li-a thì bà góa Giê-ru-sa-lem cũng thành tâm, khiêm tốn
và không mắc cỡ khi bỏ vào thùng tiền hai đồng tiền kẽm. Đối với các bà, “người của Thiên Chúa” và “Đền
Thờ của Thiên Chúa” là trên hết. Do đó
các bà đã dùng tất cả khả năng của mình để phục vụ Thiên Chúa và người
khác. Bà góa Xa-rép-ta đã được Thiên
Chúa ân thưởng khi Người cho hũ bột của bà không bao giờ vơi và vò dầu không
khi nào cạn. Còn bà góa Giê-ru-sa-lem
thì được Chúa Giê-su khen ngợi trước mặt các môn đệ Người và qua bao năm người
người đều khâm phục bà mỗi khi nghe lại câu chuyện Tin Mừng Mác-cô kể lại.
Chúa
Giê-su khẳng định rằng bà góa nghèo thành Giê-ru-sa-lem “đã bỏ vào thùng nhiều
hơn ai hết”, trong khi “mọi người đều lấy tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào
đó”. Chúa muốn nói rằng giá trị của việc
dâng cúng không tính bằng con số, nhưng bằng lòng thành. Điều đáng buồn là có nhiều người Công giáo,
tuy tham dự Thánh Lễ hằng tuần, nhưng “con số” cũng chẳng thấy, mà “lòng thành”
cũng là không. Nhưng ở nhà họ tiêu xài
hay ăn nhậu thì con số không cần đếm và lòng thành thì dư thừa! Thùng tiền cho Đền Thờ đặt ở nơi ai cũng dễ
nhận thấy. Vị trí của nó rất thuận tiện
cho những kẻ muốn khoe của và khoe lòng đạo đức khi họ cho tiền. Có thể họ sẽ bỏ vào cả nắm để các đồng tiền tạo
nên tiếng rổn rảng và kẻ qua người lại thấy được lòng quảng đại của họ. Trong khi đó, một bà góa tiến đến. Bà cung kính bỏ vào thùng hai đồng tiền kẽm. Bà đang “dâng” cho Chúa tất cả những gì bà có,
khác hẳn với những người khác là “ném” cho Chúa một đống tiền để được người đời
khen là đạo đức. Dâng cho Chúa hai đồng
tiền kẽm là bà dâng cho Người “tất cả những gì bà có và tất cả những gì để nuôi
thân”. Nói khác đi, bà đã dâng cho Chúa
chính bản thân, sự sống và tâm hồn bà.
3. Chúa Giê-su là gương mẫu cho đi hết cả những
gì mình có. Hình ảnh hai bà góa
trong bài đọc 1 và bài Tin Mừng là hình ảnh giúp chúng ta chiêm ngưỡng một hình
ảnh cao vời là Chúa Giê-su. Bài trích
thư Do-thái hôm nay vẫn tiếp tục đề tài Chúa Giê-su là vị Thượng Tế thập
toàn. Đoạn thư so sánh việc hiến tế của
thượng tế trong cung thánh Đền Thờ với việc tự hiến của Chúa Giê-su chịu chết
trên thập giá. Mỗi năm vị thượng tế phải
đem máu của chiên bò vào cung thánh làm lễ xá tội cho dân chúng. Còn Chúa Giê-su thì dùng chính Máu của Người
đổ ra trên thập giá để làm của lễ đền tội thay cho nhân loại. Cả đến những giọt máu cuối cùng trong trái
tim Người cũng bị lưỡi đòng mở ra. Tuy
nhiên hiệu quả của hai việc hiến tế lại khác nhau một trời một vực. Việc hiến tế của vị thượng tế phải lập đi lập
lại nhiều lần mỗi năm, do đó hiệu quả chỉ là nhất thời. Còn Chúa Giê-su, Người không vào cung thánh
do tay người phàm làm ra, nhưng vào Đền Thờ là thân xác Người, tức Ngôi Lời nhập
thể, “tự hiến tế chỉ một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người”.
Cái chết
của Chúa Giê-su trên thập giá là đỉnh điểm của hành động cho đi hết cả những gì
Người có để biểu lộ tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Cái chết của Người
là điểm cuối cùng kết thúc cuộc “trút bỏ vinh quang” như đoạn thư Phi-líp-phê
2:2-8 của thánh Phao-lô đã mô tả. Tuy
nhiên trước khi chịu chết, Người cũng đã cho chúng ta tất cả thời gian, không
gian, trí tuệ, sức lực và tâm hồn của Người, khi Người “mặc lấy
thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” để rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh tật cho nhân
loại. Chỉ Đấng cho đi hết cả những gì
mình có và ngay đến mạng sống của chính mình vì Thiên Chúa và nhân loại mới có
thể khẳng định rằng: “Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình” (Gio-an 15:13).
Sống sứ điệp Lời
Chúa
Hành động
đức tin của bà góa thành Xa-rép-ta và bà góa thành Giê-ru-sa-lem, nhất là cái
chết của Chúa Giê-su trên thập giá đã tóm tắt lối sống dâng hiến trọn vẹn cho
Thiên Chúa và tha nhân. Kết quả của lối
sống ấy cho chúng ta thấy rằng khi chúng ta cho đi hết cả những gì mình có để
phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân thì Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta
gấp bội. Đặc biệt là tấm gương của Chúa
Giê-su đã cho đi cả mạng sống của Người.
Mạng sống của Người đã thay đổi thân phận của nhân loại từ thù địch trở
thành con cái Thiên Chúa. Cái chết và sự
phục sinh của Người khởi đầu một cuộc Tạo dựng Mới với một nhân loại mới mà Người
là Trưởng Tử. Vậy chúng ta hãy nhìn lên
người Anh Cả của chúng ta, quan sát và học hỏi lối sống của Người, nhất là sống
như Người đã sống. Cụ thể là chúng ta
hãy quảng đại hơn mỗi khi dâng tiền Chúa Nhật cho giáo xứ, giáo phận và cho những
công việc bác ái của Giáo Hội. Hơn khi
nào hết, chúng ta tin và thực hành lời Người phán: “Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Gio-an 14:6).
Nếu chúng ta sống như vậy, chắc chắn lúc chúng ta giã từ cõi thế, Đấng
phán những lời trên sẽ trở lại để đem chúng ta về nhà Cha trên trời.
Lm. Đa-minh Trần
đình Nhi