CHÚA NHẬT 29 QUANH NĂM,
B
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: Do-thái
4: 14-16
Với bài đọc
của hai Chúa Nhật trước, chúng ta đã có một giới thiệu đầy đủ về vai trò của
Chúa Ki-tô trong kế hoạch cứu rỗi. Chúa
Ki-tô là “vị lãnh đạo thập toàn” (Dt 2:9-11, Chúa Nhật 27) dẫn đưa toàn thể
nhân loại về cội nguồn của mình là Thiên Chúa.
Đồng thời, Chúa Ki-tô cũng là Lời Thiên Chúa (Dt 4:12-13, Chúa Nhật 28),
từ Thiên Chúa mà đến với nhân loại để nói cho nhân loại biết về tình yêu và kế
hoạch của Thiên Chúa. Hiểu được vai trò
“con thoi” của Chúa Ki-tô giữa Thiên Chúa và nhân loại, chúng ta sẽ thấy dễ
dàng hơn để suy niệm về vai trò Thượng Tế của Người. Từ Chúa Nhật 29 hôm nay cho đến Chúa Nhật 33, các bài đọc sẽ
quảng diễn đề tài này, đưa chúng ta qua những chương chủ yếu của Thư Do-thái
(chương 5-10). Sáu chương này trình bày
cao điểm của Ki-tô học và là một trình bày Ki-tô học có hệ thống nhất trong
toàn bộ Tân Ước. Riêng bài đọc hôm nay
cho chúng ta hai khẳng định và kết luận thực hành.
a) Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm, đã
băng qua các tầng trời. Vậy chúng ta
hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.
Phi thuyền
con thoi là một tiến triển khoa học vĩ đại của Hoa-kỳ. Hình ảnh bay vút lên trời cao, rồi biến mất
trong không gian, đã đem lại hy vọng và tin tưởng cho các khoa học gia và nhiều
người khác. Nhưng bên cạnh những thành công, nó cũng để lại nhiều kỷ niệm
thương đau. Còn đoạn thư Do-thái hôm
nay cho chúng ta một hình ảnh sống động khác:
“Có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời.” Lời giới thiệu thật là độc đáo, nhưng cũng
vô cùng ý nghĩa. Người đã băng qua các
tầng trời. Để đến với chúng ta. Và để về lại với Thiên Chúa. Các tầng trời là một hình ảnh nói lên khoảng
cách giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Khoảng cách đó là vô hạn vô biên và loài người chúng ta không thể nào
vượt qua được. Vì thế Thiên Chúa được
gọi là Đấng Tối cao, hoặc siêu việt.
Chính Chúa Giê-su đã nói về khoảng cách vô hạn này: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người,
Đấng từ trời xuống” (Ga 3:13). Khi
xuống thế mặc lấy thân xác con người, Ngôi Lời đã “băng qua các tầng trời” mà
đến dựng lều cư ngụ giữa chúng ta (Ga 1:14).
Rồi sau khi hoàn tất cuộc Khổ nạn và Phục sinh, Đức Ki-tô đã “lên trời
ngay trước mắt các ông, và có đám mây rước Người lên, khuất mắt các ông” (Cv
1:9). Với vai trò Thượng Tế siêu phàm,
Đức Ki-tô “đã băng qua các tầng trời” để tiến vào cung thánh trên trời, đến ngự
bên hữu Thiên Chúa. Qua cái chết hy sinh
trên thập giá, Đức Ki-tô đã cất bỏ đi tấm màn che cung thánh để Người đến với
Thiên Chúa. Từ nay không còn ngăn cách
vô biên giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Tội lỗi ngăn cách giờ đây đã bị xóa bỏ và nhân loại được hòa giải với
Thiên Chúa. Sau hết, Đức Ki-tô đã băng
qua sự chết để tiến tới cuộc sống vinh quang bất diệt. Tất cả đều nói lên những cách thức khác nhau
của cùng một hành vi “băng qua các tầng trời” do Đức Ki-tô thực hiện.
Tuy là một
giới thiệu ngắn gọn, nhưng thật phong phú ý nghĩa và có sức mạnh hỗ trợ niềm
tin của chúng ta. Lời tuyên xưng đức
tin của chúng ta đã được đặt vào lúc trọng đại nhất trong Thánh lễ, ngay sau
khi Truyền phép. “Lạy Chúa, chúng con
loan truyền Chúa đã chịu chết, và tuyên xưng Chúa đã sống lại, cho tới khi Chúa
lại đến.” Nếu chúng ta ý thức được vai
trò Thượng Tế của Chúa Giê-su, chắc chắn lời tuyên xưng của chúng ta sẽ mang
những ý nghĩa mới mẻ hơn.
b) Vị Thượng Tế
của chúng ta biết cảm thương những nỗi yếu hèn của chúng ta. Vậy chúng ta hãy mạnh dạn tiến gần ngai
Thiên Chúa.
Đối với con
người, khi có ai trổi vượt hơn những người khác thì thường một khoảng cách được
tạo ra giữa họ với mọi người. Nhưng
Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm của chúng ta không phải như vậy. Siêu phàm không có nghĩa là tách biệt. Trái lại, Chúa Giê-su đã muốn cảm thương với
những nỗi yếu hèn của chúng ta. Chính
vì muốn như vậy, Người đã chọn con đường Nhập Thể, trở nên giống như chúng ta
mọi sự, ngoại trừ tội lỗi. Người đã
sống trọn vẹn thân phận con người của chúng ta, đến độ bản tính Thiên Chúa hoàn
toàn dấu ẩn đi. Dân chúng Na-da-rét xầm
xì với nhau: “Ông này không phải là con
ông Giu-se đó sao?” (Lc 4:22). Hoặc
“Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê,
Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao? Chị em
của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mc 5:3). Rồi tới các môn đệ là những người đi với
Người mấy năm trời mà cũng không nhận ra căn tính và sứ mệnh đích thực của
Người. Nhiều người đã phải khó chịu về
lối cảm thương của Chúa Giê-su và sẵn sàng lên án Người. “Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền
nghĩ bụng rằng: ‘Nếu quả thật ông này
là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ
người nao: một người tội lỗi’.” (Lc
7:39).
Gần với
những người tội lỗi và những người bị gạt ra lề xã hội, Chúa Giê-su muốn nói
lên điều gì? Người muốn tỏ ra cho nhân
loại biết Thiên Chúa cảm thương con người như thế nào. Không phải chỉ là những lời ca tụng trong
Thánh Vịnh: Tôi sẽ ca ngợi lòng thương
xót của Chúa đến muôn đời. Nhưng là
lòng thương xót đã được biểu lộ qua cử chỉ, lời nói, cách đối xử nhân hậu của
Thiên Chúa làm người. Lòng thương xót
không còn là một ý niệm trừu tượng, nhưng là những điều mắt thấy tai nghe thể
hiện qua cung cách của Chúa Giê-su.
Trước khi đi
tới kết luận thực hành, tác giả thư Do-thái muốn chúng ta có một xác tín về bản
chất của Chúa Giê-su, vị Thượng Tế siêu phàm:
Người đã chịu thử thách và cảm nhận được những nỗi yếu hèn của con
người. Sở dĩ chúng ta e ngại, không dám
tiến gần ngai Thiên Chúa là vì thấy thân phận của mình yếu hèn quá. Nhưng bây giờ, chúng ta đã thấy một người
cũng thuộc về gia đình nhân loại chúng ta, đã “băng qua các tầng trời” mà đến
được với Thiên Chúa, đã kéo Thiên Chúa cúi xuống với nhân loại, thì chúng ta
không còn lý do để ngần ngại tránh né Thiên Chúa nữa. Tiến lại gần ngai Thiên Chúa không chỉ có nghĩa tương lai đời
sau, nhưng phải là một lối sống của Ki-tô hữu ngay tại đời này. Chúa Giê-su giúp chúng ta tạo một mối quan
hệ với Thiên Chúa ngay đang khi chúng ta còn sống ở trần gian. “Tiến lại gần” diễn tả sự mật thiết mỗi ngày
một gia tăng, để rồi sẽ tới một lúc không phải chỉ tiến lại gần, nhưng là ở lại
vĩnh viễn trong tình yêu muôn đời của Thiên Chúa.
Nếu Chúa
Giê-su đã “băng qua các tầng trời” để đến với tôi, thì tôi cũng phải vượt qua
những gì để đến với Người? Làm sao để
vượt qua được những trở ngại ấy?
Tôi
đã đọc lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-su sau phần Truyền Phép với thái độ
nào? Lời thư Do-thái hôm nay sẽ giúp
tôi thế nào để nói lên lời tuyên xưng đức tin?
Tôi
đã để cho Chúa Giê-su giúp tôi “tiến lại gần ngai Thiên Chúa” như thế nào? Những gì cản ngăn tôi? Làm sao tiến đến mỗi ngày một gần Chúa hơn?
Nhóm cầu nguyện bộc phát với lời tuyên
xưng đức tin sau Truyền phép.
Lm. Ðaminh
Trần Ðình Nhi