CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY
Kinh Thánh: Ê-phê-xô 2: 4-10
Thánh
Phao-lô rao giảng Tin Mừng tại Ê-phê-xô trong chuyến hành trình truyền giáo thứ
ba. Ngài ở lại đó trên hai năm (54-57)
và đưa về rất đông anh chị em tân tòng.
Thư này ngài viết cho họ từ trong tù ở Rô-ma, nhắc nhở họ rằng theo kế
hoạch cứu độ, việc họ được tuyển chọn và cứu rỗi là hoàn toàn do ân huệ của
Thiên Chúa.
So sánh đoạn thư Ep 2:4-10 với Rm 6:3-11 cho thấy tuy
quảng diễn cùng một chủ đề giáo lý, nhưng thánh Phao-lô đặt vào hai thời điểm
khác nhau. Thư Rô-ma coi ơn được cùng
sống lại và ngự trị với Đức Ki-tô như thực tại sẽ xảy ra trong tương lai, còn
thư Ê-phê-xô coi đó là một thực tại đã có.
Các động từ trong đoạn thư Ep đặt ở thì quá khứ với mục đích đề cao tính
cách chủ động của Thiên Chúa: “Người đã
cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên
cõi trời.” Thánh Phao-lô cũng lập đi
lập lại kết luận: “Chính do ân sủng mà
anh em được cứu độ!” Vậy bởi đâu chúng
ta được ban ân sủng này và chúng ta phải đền đáp ân sủng này như thế nào?
a) Thiên Chúa
giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta
Mọi ân huệ Thiên Chúa ban cho chúng ta
đều phát xuất từ lòng thương xót và yêu mến của Người. Lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa
không chỉ tỏ ra đối với người Do-thái, mà còn đối với Dân ngoại nữa, nghĩa là
đối với mọi người không trừ ai. (Nếu
đọc các câu 1-4, sẽ thấy thánh Phao-lô phân biệt: “anh em” tức là Dân ngoại
hoặc tín hữu Ê-phê-xô, còn “chúng tôi” tức là người Do-thái, và “chúng ta” tức
là cả Dân ngoại lẫn Do-thái). Lòng
thương xót và yêu mến của Chúa không giới hạn đối với chủng tộc đã đành, nhưng
hơn thế nữa, lại còn không giới hạn đối với tình trạng bất xứng của họ nữa. Người dân ngoại thì “đã chết vì những sa ngã
và tội lỗi” hoặc như “những kẻ không vâng phục.” Còn người Do-thái thì “buông theo các đam mê của tính xác thịt”
và “đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.”
Nhưng những trở ngại ấy không ngăn chặn được lòng thương xót và yêu mến
của Thiên Chúa. Và đây cũng là một điệp
khúc được Kinh Thánh, đặc biệt là các Thánh Vịnh, luôn tuyên xưng: “Vì tình Người thương ta bền vững muôn đời”
hoặc “Tôi sẽ ca tụng lòng thương xót của Chúa đến muôn đời.”
Để tỏ ra lòng thương xót và yêu mến vô
bờ ấy, Thiên Chúa đã làm gì?
Nhìn lại thân phận mình, chúng ta hết thảy đều thấy mình “đã chết vì sa
ngã.” Tuy nhiên, vì yêu mến và thương
xót chúng ta, Chúa không muốn chúng ta phải chết luôn và phải hư mất, nhưng
Người muốn chúng ta được cùng sống lại với Đức Ki-tô, cùng sống với Đức Ki-tô
và cùng ngự trị với Đức Ki-tô. Tiến
trình sống lại – sống – ngự trị cùng với Đức Ki-tô đã trở thành một thực tại
cho người tín hữu khi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Thực tại này có được là hoàn toàn do ân sủng Thiên Chúa, chứ
không phải bởi sức riêng hay việc làm của chúng ta.
b) Chúng ta
phải làm gì để đáp lại lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa?
Nhận ra lòng thương xót và yêu mến của
Thiên Chúa phải là thái độ căn bản.
Thật là vô ơn và vô tình nếu chúng ta không muốn nhìn nhận mình được
Thiên Chúa yêu mến và xót thương. Cội
nguồn của chúng ta là đến từ tình yêu thương của Thiên Chúa tạo dựng. Hoặc nói như thánh Phao-lô: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa.” Tác phẩm mang những đường nét đặc thù của
nghệ sĩ. Chính nơi chúng ta đang mang
đầy vết tích của lòng thương xót và yêu mến của Thiên Chúa.
Mô tả rõ ràng hơn về “tác phẩm của
Thiên Chúa,” thánh Phao-lô khẳng định:
“Chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su.” Đức Ki-tô đã trở thành một khuôn mẫu sống
động để chúng ta được biến đổi khi kết hiệp với Người. Việc tạo dựng mới này không xảy ra trong một
giây phút cố định, nhưng là tiến trình liên tục trở nên giống Chúa Ki-tô mỗi
ngày một hơn. Tu đức học sử dụng những
từ khác nhau để nói về tiến trình này, như trở nên giống Chúa Ki-tô, được Ki-tô
hóa.
Nghĩa là lòng thương xót và yêu mến
của Thiên Chúa vẫn sẵn sàng cho chúng ta được sống lại từ tình trạng chết bởi
tội lỗi, được sống theo khuôn mẫu Đức Ki-tô và đem chúng ta tiến đến vinh quang
của Đức Ki-tô mỗi ngày một gần hơn. Đó
cũng là “công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.”
c) Để nên giống
Chúa Ki-tô
Đây không chỉ là một chương trình đặc
biệt dành cho mùa Chay mà thôi, nhưng cho tất cả cuộc sống của chúng ta mọi lúc
và mọi nơi. Thánh I-nhã thành Loyola đã
để lại cho chúng ta một phương thức trở nên giống Chúa Ki-tô qua kinh nghiệm tu
đức Linh Thao của ngài. Chiêm ngắm Chúa
Ki-tô trong các mầu nhiệm của Người sẽ giúp chúng ta biết Người rõ hơn, yêu mến
Người nồng nàn hơn và bước theo Người sát hơn.
Biết, yêu mến và bước theo Chúa Ki-tô là những cảm nghiệm sẽ dần dần
biến đổi con người của chúng ta bằng cách mặc lấy những tâm tình của Người và
thể hiện cũng những tâm tình ấy qua đời sống hằng ngày của chúng ta.
Các bài đọc Tân Ước trong mùa Chay cho
chúng ta những hình ảnh gương mẫu của Đức Ki-tô, đặc biệt nhất là hình ảnh Con
Yêu Dấu của Chúa Cha. Hình ảnh ấy luôn
ở trước mắt chúng ta để chúng ta nhìn ngắm, yêu mến, đối chiếu với cuộc sống
mình và khích lệ tinh thần chúng ta trong hành trình sống lại – sống với – ngự
trị cùng với Chúa Ki-tô.
Nhìn lại cuộc sống cá nhân, tôi căn
cứ vào những gì để nhận biết Chúa thương xót và hết mực yêu mến tôi?
Tôi có
quan tâm tới thực tại được sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô như một ân
sủng được Thiên Chúa ban nhưng không không?
Không để ý tới thực tại này đã gây nên thiệt hại nào cho đời sống đức
tin của tôi? Tôi phải sửa lại thế nào?
Tôi có thể
cầu nguyện với bài Tin Mừng Gio-an 3:14-21, quảng diễn cùng một chủ đề.
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm
có thể đọc lời nguyện sau đây:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế
Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn
gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi
không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng
còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn
của Người và thực hiện ý Người trong
suốt đời tôi. - R. Tagore
(Trích
RABBOUNI, lời nguyện 44)