Chúa Nhật Lễ Lá
(13-4-2003)
ĐỌC LỜI CHÚA
· Mc 11,1-10 (làm
phép lá): (9) Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: «Hoan hô!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!»
· Is 50,4-7:
(6) Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.
· Pl 2,6-11:
(6) Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa (…) (7) Ngài đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống
như người trần thế. (8) Người lại còn hạ mình, vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
· BÀI THƯƠNG KHÓ: Mc
14,1–15,47
Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập tự giá
(…) (15,15) Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên
Baraba, truyền đánh đòn Đức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá
(…) (22) Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Đồi
Sọ (…) (24) Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi
đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. (25) Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba.
(26) Bản án xử tội Người viết rằng: «Vua người Do-thái». (27) Bên cạnh
Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28) Thế là ứng
nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.
(29) Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: «Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại
được, (30) có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!»
(31) Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau:
«Hắn
cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. (32) Ông Kitô
vua Ítraen, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin».
Cả những
tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
(33) Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ
thứ chín. (34) Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: «Êlôi, Êlôi, lama xabácthani!» Nghĩa là: «Lạy Thiên
Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?» (…) (37) Đức Giêsu
lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (38) Bức màn
trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. (39) Viên đại
đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: «Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa» (…)
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức
Giêsu có run sợ trước đau khổ và sự chết không? Cuộc khổ nạn và cái chết của
Ngài là do Ngài bị ép buộc hay do tự nguyện? Động lực khiến Ngài tự nguyện là
gì?
2. Cái
chết khủng khiếp của Đức Giêsu nói lên điều gì? Có phải vừa nói lên sự công
thẳng và nghiêm túc của Thiên Chúa đối với tội lỗi, vừa nói lên tình thương bao
la của Thiên Chúa đối với con người không? Công thẳng ở chỗ nào? Tình thương ở
chỗ nào?
3. Bài
học thực tế mà chúng ta học được qua mầu nhiệm Vượt Qua được cử hành trong Tuần
Thánh là gì? Thiên Chúa và Đức Giêsu yêu thương và hy sinh cho chúng ta như
thế, các Ngài mong ước điều gì nơi chúng ta?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu đau khổ để cứu nhân loại khỏi
đau khổ
Mầu nhiệm được cử hành trong Tuần Thánh – làm cho chúng ta hết sức cảm
động – là Đức Giêsu đã chấp nhận chịu đau khổ và chết thay cho chúng ta, để
giải thoát chúng ta khỏi đau khổ và sự chết trong cảnh giới vĩnh cửu. Tất cả
đều vì yêu thương chúng ta: «Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân
thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc
đời công chính. Nhờ Người mang những vết thương của anh em mà anh em đã được
chữa lành» (1Pr 2,24).
Theo niềm tin Kitô giáo, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Ngài chẳng
những là người hoàn toàn vô tội, mà còn là một con người hoàn hảo nhất của nhân
loại. Thế nhưng Ngài lại phải chịu những cực hình khủng khiếp, đau đớn nhất của
con người. Những đau khổ ấy, Ngài đã tự nguyện chịu, mặc dù từ thâm tâm Ngài
cũng rất sợ hãi trước đau khổ. Việc Ngài lo buồn đến mức đổ mồ hôi máu trong
vườn Cây Dầu (x. Lc 22,44) nói lên nỗi sợ hãi hết sức cao độ ấy. Nhưng dù biết
trước những cực hình khủng khiếp đã khiến Ngài phải sợ hãi như thế, Ngài vẫn tự
nguyện đón nhận, vì muốn hoàn thành thánh ý Chúa Cha là cứu độ loài người, và
vì chính Ngài cũng yêu thương con người, muốn cứu họ khỏi tội lỗi và hậu quả
khủng khiếp của tội lỗi. Dù bản năng có ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ,
Ngài vẫn vui lòng chấp nhận đau khổ và chết, để con người được sống và sống
hạnh phúc: «Lạy
Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng
theo ý con, mà xin theo ý Cha» (Mt 26,39).
2. Đức Giêsu thực hiện sự công bình và tình yêu
của Thiên Chúa đối với nhân loại tội lỗi
Vì tội của nguyên tổ và của riêng từng người, đáng lẽ nhân loại chẳng
những bị mất hạnh phúc vĩnh cửu mà còn phải chịu đau khổ đời đời. Sự công bình
nơi bản tính của Thiên Chúa đòi buộc mọi tội lỗi đều phải đền trả, nghĩa là con
người phải chịu hình phạt xứng đáng. Nếu thế con người sẽ phải đau khổ đời đời!
Nhưng tình yêu vô biên của Ngài đối với con người đòi hỏi Ngài phải ra tay cứu
họ, nếu không thì không còn là tình yêu nữa! Vừa bắt con người phải đền tội,
vừa phải ra tay cứu họ, đối với trí óc của con người điều đó quả là mâu thuẫn
và nan giải! Nhưng sự khôn ngoan vô biên của Ngài đã giải quyết nan đề ấy bằng
cách cho Con của Ngài xuống thế làm người, đại diện cho toàn nhân loại, chịu
đau khổ và chết, để đền tội thay cho cả loài người. Theo cách đó, sự công bằng
và tình yêu của Ngài đều được thỏa mãn.
Đức Giêsu – là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, cũng là Thiên Chúa trong bản
tính nhân loại – đã đảm trách việc hòa giải giữa hai đòi hỏi trái ngược nhau
của sự công bằng và tình yêu Thiên Chúa, và cũng là hòa giải giữa con người với
Thiên Chúa. Vì thế, sứ mạng của Đức Giêsu là phải làm sao cho con người thấy được
công lý của Thiên Chúa phải được thực hiện nghiêm túc thế nào, đồng thời cũng
biểu lộ cho con người thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người bao la thế
nào.
Chân lý, công lý và tình thương, đó là những thuộc tính hết sức quan trọng trong bản tính
Thiên Chúa. Thiết tưởng người Kitô hữu – là người ý thức hơn ai hết con người
là hình ảnh của Thiên Chúa – cần phải phản ánh và thể hiện ba thuộc tính ấy
trong đời sống của mình. Đức Giêsu đã nhấn mạnh sự quan trọng của ba thuộc tính
ấy: «Những
điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và tính chân
thật» (Mt 23,23).
3. Tình yêu của Thiên Chúa được biểu hiện nơi
Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương con người, điều ấy đã được Thánh Kinh nói đến rất
nhiều: «Anh
em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được
gọi là con Thiên Chúa mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa» (1Ga
3,1); «Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời» (Ga 3,16); «Tình yêu của
Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một
đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống» (1Ga
4,9); «Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là
bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,8).
Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại được thể hiện cụ thể qua tình
yêu của Đức Giêsu đối với con người: «Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến
anh em như vậy» (Ga 15,9); «Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế
gian, và Người yêu thương họ đến cùng» (Ga 13,1).
4. Hãy thể hiện tình yêu của Thiên Chúa ra cho
tha nhân
Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc, chấp nhận
chết để con người được sống. Chính tình yêu đối với con người đã thúc đẩy Ngài
làm điều ấy. Sự việc ấy cho thấy đau khổ của ta có thể biến thành hạnh phúc cho
người khác, cái chết của ta có thể biến thành sự sống cho người khác. Nghĩa là
ta có thể chấp nhận đau khổ để người mình yêu được hạnh phúc, chấp nhận chết để
người mình yêu được sống. Vì thế, đau khổ và chết cho người mình yêu là cách
tuyệt hảo nhất để biểu lộ và thể hiện tình yêu: «Không có tình thương nào cao cả hơn
tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga
15,13). Thiết tưởng người Kitô hữu cần sử dụng thường xuyên cách biểu lộ và thể
hiện tình yêu tuyệt hảo này trong đời sống (đáng lẽ phải) đầy tràn yêu thương
của mình.
Cũng như tình yêu của Chúa Cha đối với Đức Giêsu là gương mẫu cho tình
yêu của Ngài đối với nhân loại: «Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến
anh em như vậy» (Ga 15,9); thì Ngài rất mong tình yêu của Ngài đối
với chúng ta cũng là gương mẫu để chúng ta yêu thương nhau: «Anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 15,12). Thánh
Gioan đã diễn tả ý tưởng trên như sau: «Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì
chúng ta cũng phải yêu thương nhau» (1Ga 4,11); «Chúng ta hãy
yêu thương nhau, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước» (1Ga
4,19); «Đức
Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí
mạng vì anh em» (1Ga 3,16). Vậy, chúng ta hãy áp dụng tinh thần yêu
thương và hy sinh cho người mình yêu, trước hết và đặc biệt cho những người gần
gũi với chúng ta nhất: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè… sau đó cho những
người xa hơn, và cuối cùng cho cả những người ghét và làm hại chúng ta. «Anh em hãy
mang cho nhau, như vậy là anh em chu
toàn Luật Đức Kitô» (Gl 6,2).
Tóm lại, hãy trở nên hiện thân cho tình yêu Thiên Chúa giữa tha nhân,
giữa trần gian. Thiết tưởng đó là những điều thực tế mà trong Tuần Thánh này
chúng ta phải quyết tâm thực hiện trong đời sống mình. Nếu không Tuần Thánh này
cũng chỉ là một tuần vô bổ, trôi qua không dấu vết trong đời sống chúng ta.
CẦu nguyỆn
Tôi nghe thấy tiếng Chúa nói với tôi: «Con ơi, Cha yêu con, yêu con vô cùng.
Cuộc tử nạn và cái chết của Đức Giêsu chính là bằng chứng rrt nhất cho tình yêu
của Cha. Cha mong mỏi con đáp lại tình yêu của Cha như một tình nhân mong được
người mình yêu đáp trả lại bằng tình yêu. Cách đáp trả tình yêu mà Cha mong
muốn nhất nơi con, chính là con ban rải yêu thương một cách thật quảng đại,thậm
chí phung phí, cho những người sống chung quanh con, những người con thường gặp
hằng ngày. Hãy trở nên hiện thân của tình yêu Cha giữa mọi người».
Joan Nguyễn Chính Kết
8-4-2003