CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH
Kinh Thánh: 1 Gio-an 3: 18-24
Quảng diễn chủ đề làm con Thiên Chúa,
thánh Gio-an đề cập tới một số điều kiện căn bản cho những ai muốn sống trong
sự sáng. Chúng ta phải tránh phạm tội
và phải tuân giữ điều răn của Chúa, sống kết hợp với Chúa, đoạn tuyệt với tội
lỗi và những lý thuyết quyến rũ của nó.
Trong những tư tưởng của Gio-an, chúng ta nhận ra nhiều giới răn: Chúa đòi chúng ta phải phục tùng, có lòng
tin, lòng mến, khiêm nhường... Phao-lô
cũng trình bày những đặc sủng Chúa ban cho tín hữu, nhưng ngài quy về một nguồn
gốc là Thánh Thần và nhắm cùng một mục đích là xây dựng Nhiệm thể Chúa Ki-tô,
rồi ngài đi đến kết luận: “Hiện nay đức
tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1
Cr 13:13). Vậy với Gio-an, chúng ta có
thể nhận ra đâu là giới răn ngài muốn nhấn mạnh và cho là quan trọng hơn hết
không? Có chứ. Mặc dù Thư 1 Gio-an hầu như lúc nào cũng đề
cập tới yêu thương, nhưng tư tưởng cốt lõi của ngài vẫn là về đức tin. Nói về những giới răn khác chỉ là cách ngài
nhìn giới răn cốt yếu qua những chiều kích khác nhau. Đối với ngài, giới răn cốt yếu là hãy tin vào Đức Giê-su là Con
Thiên Chúa: “Đây là điều răn của Thiên
Chúa: chúng ta phải tin vào danh Đức
Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã
ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23). Vậy thế
nào là tin vào Đức Giê-su và phải làm gì để làm chứng cho niềm tin ấy?
a) “Chúng ta phải
tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người”
Kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa là muốn đưa nhân loại về với
nguồn cội là Thiên Chúa. Kế hoạch ấy
Thiên Chúa đã thực hiện qua lịch sử Ít-ra-en để lời hứa của Người được thể
hiện, rồi qua Đức Ki-tô Phục Sinh bắt đầu một cuộc tạo dựng mới để kế hoạch sẽ
được hoàn tất trong ngày cánh chung.
Theo kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Ki-tô lịch sử đã mặc khải cho nhân
loại tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với họ về tình yêu vô điều kiện của
Người và giờ đây đã trở thành Đức Ki-tô của lòng tin. Do đó, điều quan trọng nhất Người đòi hỏi con người phải làm nếu
họ muốn đáp lại kế hoạch yêu thương của Người, đó là phải tin vào Đức Giê-su
Ki-tô.
Truy nguyên tại sao Thiên Chúa dạy
chúng ta phải tin vào Đức Ki-tô, chúng ta đi theo từng bước. Tin vào danh Đức Ki-tô nghĩa là tin
vào tất cả con người Đức Ki-tô, vì cái tên thay cho toàn diện con người. Tin vào con người Đức Ki-tô nghĩa là tin vào
tất cả những gì Đức Ki-tô đã sống, đã giảng dạy, cả đến việc Người chết và sống
lại. Tin vào những gì Đức Ki-tô đã làm
tức là tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Ki-tô. Là Ki-tô tức là Đấng được xức sầu, Đức Ki-tô
đã chu toàn vai trò của Người tôi tớ chịu đau khổ. Là Con Thiên Chúa, Đức Ki-tô đã vâng phục Người và hoàn tất kế
hoạch Chúa Cha đã phó thác. Bởi đó,
những danh hiệu Ki-tô và Con Thiên Chúa
đã nói lên Chúa Giê-su là ai và sứ mệnh của Người là gì. Không thể chỉ tin vu vơ, nhưng là phải có
một mối tương giao mật thiết với con người Chúa Giê-su và sứ mệnh của
Người. Ki-tô hữu đã được vinh dự làm con
Thiên Chúa và được mời gọi sống mối tương giao mật thiết với Người. Đoạn thư hôm nay cho Ki-tô hữu một phương
thức sống động để sống mối tương giao ấy:
hãy tin vào Đức Giê-su Ki-tô.
b) “Phải yêu
thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta”
Tin vào Đức Ki-tô tức là chấp nhận
toàn diện con người, giáo lý và lối sống của Người. Vậy Người đã dạy điều gì quan trọng nhất? Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giê-su đã thu gọn
toàn bộ giáo lý của Người khi Người nhắn nhủ môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương
nhau; anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).
Tin không phải đơn thuần là hành vi
của lý trí, nhưng là của con tim, giúp chúng ta thể hiện niềm tin qua việc làm
cụ thể. Tin là sống mối quan hệ với
người chúng ta tin tưởng. Cho nên trước
khi khẳng định điều răn của Thiên Chúa là chúng ta phải tin vào Đức Ki-tô,
thánh Gio-an đã cẩn thận nhắc nhở: đừng
yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng chân thật và biểu lộ bằng việc
làm. Sự chân thật ấy không chỉ đối với
anh em, mà đối với cả Thiên Chúa nữa.
Thiên Chúa cảm thông những yếu đuối của con người chúng ta, cho nên nếu
lương tâm chúng ta có thấy khó yêu thương anh em, hoặc đã phạm lỗi đức yêu thương,
thì Thiên Chúa vẫn khoan dung với chúng ta.
c) Thánh Thần
giúp chúng ta tin vào Đức Ki-tô và yêu thương anh em
Thánh Gio-an đã nêu lên một thực tại
cho thấy chúng ta tin vào Đức Ki-tô và sống theo điều răn Người đã ban cho
chúng ta, đó là chúng ta “ở lại” trong Thiên Chúa và Thiên Chúa “ở lại” trong
chúng ta. “Ở lại” là lối nói quen thuộc
của thánh Gio-an để diễn tả mối tương giao mật thiết và sống động giữa chúng ta
với Chúa Giê-su hoặc giữa chúng ta với Thiên Chúa. “Ở lại” bằng cách nào và như thế nào? Chính là nhờ Thần Khí.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý của đời sống mới thúc giục chúng ta mỗi
ngày một đi sâu hơn vào mối tương giao mật thiết với Chúa Giê-su và qua Chúa
Giê-su sống mật thiết với Thiên Chúa.
Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa thúc đẩy và giúp chúng ta tuyên
xưng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa và thể hiện việc tuyên xưng ấy bằng việc yêu
thương anh chị em.
Tôi nhận ra được mối tương quan
giữa niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và bổn phận yêu thương anh em như
thế nào? Nếu trong quá khứ tôi không
nhận thức điều đó thì từ nay tôi phải làm gì?
Tại sao
thánh Gio-an đã đề cao đức tin vào Chúa Ki-tô?
Có phải Đức Ki-tô là “Tình Yêu nhập thể” và gương mẫu yêu thương
không? Có phải chính về Đức Ki-tô mà
thánh Gio-an cứ nói hoài về một chủ đề “tình yêu” không?
Tôi đang
làm gì và sẽ làm gì để “lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” của tôi
được phát triển mỗi ngày một hơn?
Có lẽ tôi
ít chú ý tới vai trò của Thánh Thần trong khi sống mối tương giao với Chúa
Giê-su và Chúa Cha. Tôi sẽ làm gì để
giúp mình ý thức hơn vai trò của Người?
Có một kinh nguyện đặc biệt và thường xuyên cầu xin với Chúa Thánh Thần?
Sau những lời nguyện bộc phát, nhóm cùng hát một bài diễn
tả ơn gọi làm con cái Chúa hoặc một lời nguyện về Chúa Thánh Thần.
16-5-2003